Căn cứ phát sinh bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:56:42 (GMT+7)

Người có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường

MỤC LỤC

MỤC LỤC

1.Căn cứ pháp lý

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ban đầu tồn tại dưới hình thức là một hình phạt có lợi cho người bị thiệt hại, buộc người gây thiệt hại phải đưa cho người bị thiệt hại một khoản bồi thường. Sau này, với sự phát triển của xã hội và sự thay đổi của các chế định pháp luật, trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã trở thành nghĩa vụ, bổn phận của người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại nhằm phục hồi tình trạng vật chất, tinh thần của họ. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định quan trọng trong luật dân sự, phát sinh khi xảy ra một trong các căn cứ pháp luật quy định. Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau:

Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này”

2.Nội dung

2.1.Khái niệm

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế định luật được hình thành và phát triển sớm nhất trong các chế định luật dân sự. Những quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống hiện đại, đó là công cụ giúp duy trì trật tự chung của xã hội cũng như đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể khi tham gia vào các giao dịch dân sự. Sự phát triển của xã hội kéo theo những tranh chấp về quyền và lợi ích nói chung, tranh chấp liên quan đến bồi thường thiệt hại nói riêng xảy ra ngày càng nhiều, tính chất của các vụ việc ngày càng phức tạp. Do đó, quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là vô cùng quan trọng và cần thiết. Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại quan hệ dân sự, trong đó chủ thể có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác mà gây ra thiệt hại thì phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra.

2.2.Căn cứ phát sinh

Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định dựa trên yếu tố chủ quan và khách quan. Theo đó, chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại do yếu tố chủ quan được thể hiện thông quan hành vi hoặc tài sản của mình gây ra, cụ thể:
-Một là, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi chủ thể có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác. Những hành vi đó có thể là cố ý hoặc vô ý nhưng phải xuất phát từ chính hành vi của người gây thiệt hại, mà không có sự tác động của các yếu tố bên ngoài hay hành vi của chủ thể khác. Căn cứ vào nguyên tắc chung làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì, chủ thể chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường về hành vi của mình khi có các điều kiện cơ bản sau: 
(1) Có thiệt hại xảy ra trên thực tế. Mục đích của trách nhiệm bồi thường thiệt hại là khôi phục lại tình trạng tài sản, bù đắp thiệt hại về tinh tình cho người bị thiệt hại, do đó, không có thiệt hại xảy ra thì không đặt ra vấn đề bồi thường thiệt hại. Chính vì vậy, có thể nói thiệt hại xảy ra là tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Thiệt hại là những tổn thất được tính thành tiền, là căn cứ để xác định mức bồi thường. 
(2) Có hành vi gậy thiệt hại. Theo nguyên tắc chung của Hiến pháp nước CHXNCN Việt Nam, mỗi công dân đều có quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản mà mọi người đều phải tôn trọng, không được có bất kỳ hành vi nào xâm phạm đến các quyền đó. Bên cạnh đó Điều 3 BLDS năm 2015 quy định: “Không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích của người khác”. Mà quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh với chủ thể có hành vi xâm phạm đến tính mang, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. Như vậy, có thể thấy hành vi xâm phạm của chủ thể chính là hành vi trái pháp luật. Do đó, chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường phải có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho người khác. Hành vi có thể được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động.
(3) Lỗi của người gây ra thiệt hại. Lỗi được chia ra làm hai loại là lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Về nguyên tắc, chủ thể bị áp dụng một chế tài pháp lý khi họ có hành vi vi phạm pháp luật do phạm cả hai lỗi trên. Theo đó, lỗi cố ý là trường hợp một chủ thể nhận thức được hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện. Còn lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có thể gây thiệt hại, nhưng buộc phải biết hoặc có thể biết nhưng cho rằng thiệt hại không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được. Lỗi là yếu tố quan trọng để xác định trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói riêng. Cá nhân có khả năng nhận thức làm chủ hành vi của mình phải chịu trách nhiệm khi có lỗi. Lỗi của pháp nhân trong việc chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là lỗi của người thực hiện nhiệm vụ phục vụ cho lợi ích của pháp nhân đó. Trong một số trường hợp lỗi được xác định là lỗi suy đoán.
(4) Có quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi gây thiệt hại. Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi gây thiệt hại. Mối quan hệ nhân quả là cơ sở để áp dụng các chế tài pháp lý đối với một chủ thể. Bồi thường thiệt hại không chỉ nhằm mục đích khắc phục những tổn thất cho người bị hại mà còn nâng cao ý thức, trách nhiệm của chủ thể trong việc tôn trọng lợi ích của chủ thể khác. Do đó, phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại, điều này được thể hiện trong quy định pháp luật với cấu trúc “người nào có hành vi...xâm phạm…mà gây thiệt hại”.
-Hai là, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Theo quy định pháp luật thì khi tài sản gây ra thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của chủ thể gây ra, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra cũng phải đáp ứng các điều kiện làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường như đã phân tích ở trên. Về nguyên tắc, chủ sở hữu tài sản có nghĩa vụ phải bảo quản, quản lý tài sản, đảm bảo việc sử dụng tài sản không gây thiệt hại cho chủ thể khác. Như vậy, chủ thể có lỗi trong việc bảo quản, sử dụng tài sản gây thiệt hại cho chủ thể khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Ví dụ: phóng nhanh vượt ẩu gây ra tai nạn,…

2.3.Trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường

Không phải trong mọi trường hợp khi gây ra thiệt hại cho chủ thể khác, người gây thiệt hại cũng phải bồi thường. Trên cơ sở xác định yếu tố chủ quan, khách quan trong nguyên nhân gây thiệt hại mà pháp luật loại trừ trách nhiệm bồi thường cho chủ thể. Theo đó, chủ thể không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại. Căn cứ loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại được áp dụng chung cho cả hành vi gây thiệt hại và tài sản gây thiệt hại. 
-Sự kiện bất khả kháng xuất phát từ nguyên nhân khách quan, nằm ngoài ý chí, tầm kiểm soát của chủ thể như: thiên tai, dịch bệnh, đình công,…Thiệt hại xảy ra không phải do hành vi gây vi phạm pháp luật của chủ thể càng không có yếu tố lỗi, và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại. Do đó, chủ thể không phải chịu trách nhiệm bồi thường khi thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng. 
-Trên thực tế, thiệt hại xảy ra có thể do lỗi của chính bên gây thiệt hại. Đó có thể là lỗi vô ý, hoặc cố ý để buộc chủ thể khác phải bồi thường cho mình. Chủ thể bị thiệt hại bằng hành vi của mình tác động làm thiệt hại xảy ra. Trong trường hợp này, chủ thể bị thiệt hại đồng thời là chủ thể gây thiệt hại nên không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của chủ thể khác. Ví dụ: A thỏa thuận vận chuyển cho B 1 tấn hoa quả sạch. Vào thời điểm chuyển giao, A đã chuyển giao đúng thời hạn, địa điểm thỏa thuận nhưng B lại không có mặt để nhận tài sản khiến cho hoa quả bị hỏng gần một nửa. Trường hợp này mặc dù có thiệt hại xảy ra, nhưng hành vi gây thiệt hại lại là của B, B đã có lỗi trong việc không tiếp nhận tài sản đúng theo thỏa thuận nên phải chịu thiệt hại về hành vi của mình.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại không chỉ nhằm đảm bảo việc đền bù tổn thất đã gây ra mà còn là công cụ để giáo dục mọi chủ thể về ý thức tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. 

 Xem thêm: Tổng hợp các bài viết hỏi đáp Luật Dân sự

Luật Hoàng Anh

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư