2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
Khi quan hệ nghĩa vụ được xác lập, để đảm bảo nghĩa vụ được thực hiện đúng, đầy đủ các bên có thể thỏa thuận xác lập biện pháp bảo đảm. Mà quan hệ nghĩa vụ là quan hệ được phép chuyển giao cho bên thứ ba thông qua hình thức chuyển giao quyền yêu cầu của bên có quyền. Chính vì vậy, pháp luật có quy định riêng về chuyển giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Cụ thể, Điều 368 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về vấn đề trên như sau:
“Điều 368. Chuyển giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Trường hợp quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm thì việc chuyển giao quyền yêu cầu bao gồm cả biện pháp bảo đảm đó”.
-Trong quan hệ nghĩa vụ, bên có nghĩa vụ là bên phải chủ động thực hiện nghĩa vụ với bên có quyền, tuy nhiên, để đảm bảo bên có nghĩa vụ chủ động thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ, pháp luật đã trao cho bên có quyền quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ. Quyền yêu cầu là sự đôn đốc, nhắc nhở thực hiện nghĩa vụ, tránh việc chây ỳ, trốn tránh nghĩa vụ. Chuyển giao quyền yêu cầu là sự thỏa thuận của các bên mà theo đó bên có quyền yêu cầu sẽ chuyển giao quyền yêu cầu cho người thứ ba. Thực chất chuyển giao quyền yêu cầu là một hợp đồng, bởi sự chuyển giao dựa trên thỏa thuận và thống nhất ý chí của bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao. Khác với thực hiện quyền yêu cầu thông qua người thứ ba (ủy quyền), khi quyền yêu cầu được chuyển giao, quan hệ giữa bên chuyển giao và bên có nghĩa vụ sẽ chấm dứt làm phát sinh quan hệ mới là quan hệ giữa bên nhận chuyển giao và bên có nghĩa vụ.
-Biện pháp bảo đảm được hiểu là biện pháp do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định mà theo đó bên bảo đảm dùng tài sản hoặc uy tín của mình để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ trước bên có quyền. Điều 292 BLDS năm 2015 quy định các biện pháp bảo đảm là: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh, tín chấp, cầm giữ tài sản.
-Khi thỏa thuận xác lập biện pháp bảo đảm, các bên có thể xác lập một hợp đồng riêng tồn tại song song với hợp đồng chính, hoặc thiết lập thành các điều khoản ghi nhận trong hợp đồng chính. Khoản 4 Điều 402 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính”. Có thể thấy, hợp đồng bảo đảm đảm tồn tại đồng thời với hợp đồng nghĩa vụ, do đó, khi đã chuyển giao quyền yêu cầu thì phải chuyển giao cả biện pháp bảo đảm đi kèm. Điều 366 BLDS năm 2015 quy định bên chuyển giao khi chuyển giao quyền yêu cầu thì phải chuyển giao những giấy tờ liên quan, đó có thể là hợp đồng chính, hợp đồng phụ, giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản bảo đảm, chứng minh thư,…Chuyển giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm kèm theo như: Chuyển giao quyền đòi nợ trong hợp đồng cho vay có đảm bảo bằng biện pháp thế chấp, chuyển giao quyền yêu cầu trả tiền trong hợp đồng mua bán hàng hóa có đảm bảo bằng biện pháp đặt cọc,…
-Theo quy định, thì khi quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đương nhiên được chuyển giao mà không cần có sự thỏa thuận của các bên. Quy định này xuất phát từ bản chất của áp dụng biện pháp bảo đảm là bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên mang nghĩa vụ. Có biện pháp bảo đảm thì bên có nghĩa vụ sẽ chủ động hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ đáp ứng quyền và lợi ích của bên có quyền. Bên cạnh đó, khi quyền yêu cầu được chuyển giao không ảnh hưởng đến người có nghĩa vụ, người thực hiện nghĩa vụ không thay đổi, và họ vẫn phải thực hiện đúng nghĩa vụ đó. Chính vì vậy, pháp luật quy định như vậy để đảm bảo sự thuận lợi trong thực hiện nghĩa vụ cũng như đảm bảo được quyền lợi cho bên được chuyển giao quyền yêu cầu mà không làm ảnh hưởng đến lợi ích của bên phải thực hiện nghĩa vụ[1].
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết hỏi đáp Luật Dân sự
Luật Hoàng Anh
[1]PGS.TS.Nguyễn Văn Cừ - PGS.TS.Trần Thị Huệ,(2017), “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”,Nxb.Công an nhân dân.
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh