Công nghệ và chuyển giao công nghệ là gì (P2)?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:10 (GMT+7)

Bài viết trình bày về công nghệ và chuyển giao công nghệ

MỤC LỤC

MỤC LỤC

2. Chuyển giao công nghệ

Theo Khoản 7 Điều 1 Luật chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14 ngày 19 tháng 6 năm 2017 quy định khái niệm chuyển giao công nghệ (CGCN) như sau:

“7. Chuyển giao công nghệ là chuyển nhượng quyền sở hữu công nghệ hoặc chuyển giao quyền sử dụng công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên nhận công nghệ.”

Theo WIPO cho rằng: “Li – xăng công nghệ (CGCN) chỉ diễn ra khi một trong các bên sở hữu những tài sản vô hình có giá trị, đó là tài sản trí tuệ, và do đó, chủ sở hữu có quyền pháp lý ngăn cấm người khác sử dụng các tài sản đó. Li- xăng thể hiện sự đồng ý của chủ sở hữu cho phép sử dụng tài sản trí tuệ để nhận lấy một khoản tiền hoặc tài sản khác. Việc Li – xăng công nghệ không thể xảy ra nếu không có tài sản trí tuệ”. Điều đó có nghĩa rằng: việc CGCN luôn được thực hiện khi chủ sở hữu công nghệ đã xác lập quyền sở hữu trí tuệ đối với công nghệ. Việc xác lập quyền này có trường hợp bắt buộc phải đăng ký, nhưng cũng có trường hợp không cần đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền (ví dụ: bí mật kinh doanh, chương trình máy tính…). Theo quan điểm này, thì khi mọi người đều có quyền (sở hữu, sử dụng) đối với công nghệ, sẽ không có việc CGCN vì ai cũng có quyền khai thác sử dụng công nghệ.

Hiện nay, khái niệm CGCN được đề cập trong nhiều tài liệu, dưới nhiều góc độ khác nhau, cụ thể:

– “Cẩm nang CGCN” – tài liệu do Bộ KH&CN (dịch từ nguyên tác tiếng Anh “Technology transfer an escap training manual” của Ủy ban kinh tế xã hội khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (ESCAP) thuộc Liên Hiệp quốc) biên soạn, đề cập: “CGCN nghĩa là công nghệ di chuyển qua biên giới quốc gia”;

– Nguyễn Thúy Quỳnh Mai, Nguyễn Thúy Quỳnh Loan, đưa ra khái niệm: “CGCN có thể được hiểu như sự di chuyển công nghệ từ đơn vị này đến đơn vị kia, việc chuyển giao thành công là khi đơn vị nhận công nghệ có được những hiểu biểu rõ ràng và có thể sử dụng công nghệ một cách hiệu quả. Ngược lại, nếu người nhận không nắm vững được công nghệ nhận được và không thể sử dụng được nó một cách hiệu quả thì việc chuyển giao coi như chưa thực hiện được”;

– Tài liệu tập huấn đổi mới công nghệ và quản lý đổi mới công nghệ (tài liệu quản lý công nghệ), ngoài nội dung khái niệm CGCN theo Luật CGCN được đề cập ở trên, khái niệm CGCN còn được được tổng hợp: “Theo quan điểm tổng quát: CGCN là việc đưa kiến thức kỹ thuật ra khỏi nơi đã sản sinh ra nó; Theo quan điểm quản lý công nghệ: CGCN là tập hợp các hoạt động về kỹ thuật, thương mại, pháp lý nhằm làm cho bên nhận công nghệ có được năng lực công nghệ như bên giao công nghệ trong sản xuất, kinh doanh”.

Tạm thời, tóm tắt các quan điểm về khái niệm CGCN qua 6 điểm chính cơ bản như sau:

– CGCN là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền CGCN sang bên nhận công nghệ;

– CGCN là ứng dụng công nghệ hiện có;

– CGCN là chuyển giao kiến thức có hệ thống về chế tạo một sản phẩm nào đó, ứng dụng một quy trình công nghệ nào đó hoặc cung cấp một dịch vụ nào đó;

– CGCN là tập hợp các hoạt động về kỹ thuật, thương mại, pháp lý nhằm làm cho bên nhận công nghệ có được năng lực công nghệ như bên giao công nghệ trong sản xuất, kinh doanh.

– CGCN là sự dịch chuyển công nghệ qua biên giới quốc gia;

– CGCN là chuyển giao giữa các khâu của vận động công nghệ: Nghiên cứu cơ bản -> nghiên cứu ứng dụng -> sản xuất thử, thử nghiệm -> thương mại hóa.

Từ nội dung đề cập trên, thấy rằng: khái niệm về CGCN rất đa dạng, phong phú. Các khái niệm này không đối nghịch nhau mà có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Tùy từng bối cảnh, điều kiện cụ thể, mà các khái niệm CGCN được đề cập phù hợp. Khái niệm CGCN trong Luật CGCN Việt Nam, hay khái niệm CGCN của WIPO chỉ là một quan điểm về CGCN. Quan điểm này được xem xét đứng trên quan điểm của bên CGCN, nó chưa khái quát, đầy đủ và phù hợp với đặc thù của một quốc gia thường xuyên phải tiếp nhận công nghệ từ nước ngoài, với khát khao có được công nghệ mới để phát triển bền vững như Việt Nam. Vì vậy, việc các ý kiến cho rằng: “điểm mâu thuẫn không thể chấp nhận được của pháp luật CGCN Việt Nam so với quan điểm về CGCN của thế giới”, nếu có chỉ ở góc độ đơn thuần về yếu tố pháp lý, về quyền chuyển giao các đối tượng sở hữu trí tuệ.

Dưới góc độ quản lý nhà nước ở cấp vĩ mô, người ta thường quan tâm và coi sự dịch chuyển công nghệ là CGCN. Bởi mối quan tâm thường được đặt ra ở cấp vĩ mô là thu hút các công nghệ mới, tiên tiến có tác dụng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hiện đại, kích thích sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh, giải quyết công ăn việc làm, đóng góp cho ngân sách nhà nước; cấm hoặc hạn chế các công nghệ có tác động không tốt ảnh hưởng đến văn hóa, xã hội, môi trường. Tác giả bài báo này hoàn toàn đồng ý với quan điểm “cần quy định quản lý hoạt động CGCN đối với từng luồng CGCN: CGCN từ Việt Nam ra nước ngoài, CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam và CGCN trong nước”. Bởi mỗi loại hình CGCN theo luồng CGCN đã nêu có đặc thù riêng về đối tượng khuyến khích chuyển giao, cấm và hạn chế CGCN. Tuy nhiên, tác giả bài báo hoàn toàn không đồng ý đối với các tác giả có quan điểm coi “Chuyển dịch công nghệ không phải là CGCN”. Nếu coi chuyển dịch công nghệ không phải là CGCN thì lấy cơ sở nào để quản lý các công nghệ được chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam thông qua các dự án 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), các hợp đồng nhượng quyền thương mại (có gắn với công nghệ) trong Luật Thương mại. Trong khi bên cạnh những thành tựu của việc CGCN từ các kênh này mang lại, chúng ta phải đối diện với nhiều nguy cơ, thảm họa (nếu buông lỏng quản lý nhà nước) của việc CGCN từ các kênh này, như vấn đề ô nhiễm môi trường, vấn đề chuyển giá làm thất thu thuế cho ngân sách nhà nước.

Đối với việc CGCN tiếp cận từ “chuyển giao giữa các khâu của vận động công nghệ”, nói cách khác là việc chuyển giao các kết quả nghiên cứu từ quá trình nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (R&D).

Khoản 1 Điều 40 Luật chuyển giao công nghệ năm 2017 quy định:

“1. Nhà nước giao quyền chủ sở hữu công nghệ đối với kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ được tạo ra bằng ngân sách nhà nước cho tổ chức chủ trì nghiên cứu và phát triển công nghệ đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

Để chi tiết hóa việc CGCN được hình thành từ kết quả R&D, được quy định bởi Luật KH&CN năm 2013 và Nghị định số 08/2014/NĐ-CP của Chính phủ, Bộ KH&CN đã ban hành Thông tư số 15/2014/TT-BKHCN ngày 13/6/2014 quy định trình tự, thủ tục giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sử dụng ngân sách. Từ đó, cho thấy quan điểm về chuyển giao kết quả R&D giữa Luật CGCN và Luật KH&CN năm 2013 không hề có mâu thuẫn. Do vậy, theo quan điểm tác giả bài viết, không cần thiết quy định lại vấn đề này trong Luật CGCN sửa đổi, bổ sung. Việc bổ sung nếu có, là xây dựng thêm cơ chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý để các công nghệ hình thành từ kết quả R&D nhanh chóng đi vào cuộc sống. Đó cũng là con đường để thu hút các công nghệ mới, công nghệ nguồn từ nước ngoài vào Việt Nam mà lâu nay chúng ta bỏ ngỏ làm hạn chế đưa các công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh theo các luồng CGCN trong nước cũng như CGCN từ nước ngoài vào trong nước.

Như vậy, qua phần trình bày trên cho thấy, khái niệm về CGCN khá đa dạng phong phú. Vì thế, Luật CGCN cần đưa ra một định nghĩa đảm bảo tính khái quát cho phù hợp. Theo tác giả bài viết, khái niệm hiện nay của Luật CGCN tiếp cận với quan điểm WIPO về CGCN, tuy nhiên các đối tượng áp dụng Luật CGCN không dừng lại ở việc chuyển giao quyền. Nếu giữ nguyên khái niệm về CGCN như hiện nay chưa phù hợp với chính những quy định của Luật CGCN đưa ra. Để đảm bảo tính khái quát của Luật CGCN. Khái niệm về CGCN trong Luật CGCN nên định nghĩa lại là “CGCN là sự dịch chuyển công nghệ ra khỏi môi trường sản sinh ra nó”. Môi trường ở đây có thể là môi trường của quốc gia, chủ thể (tổ chức, cá nhân), công đoạn nghiên cứu triển khai khác nhau…

Xem thêm: Tổng hợp bài viết về công nghệ và chuyển giao công nghệ.

Luật Hoàng Anh

 

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư