2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
-Trong quan hệ hợp đồng, một bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp. Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ảnh hưởng đến lợi ích của tất cả các bên trong hợp đồng, vì vậy, bên đơn phương chấm dứt hợp đồng chỉ được thực hiện quyền này theo quy định của pháp luật. Cụ thể, Điều 428 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng như sau:
“Điều 428. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng
1. Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
2. Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
3. Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt kể từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán phần nghĩa vụ đã thực hiện.
4. Bên bị thiệt hại do hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng của bên kia được bồi thường.
5. Trường hợp việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng không có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này thì bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng được xác định là bên vi phạm nghĩa vụ và phải thực hiện trách nhiệm dân sự theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan do không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng”.
-Đơn phương chấm dứt hợp đồng là hành vi của một bên trong hợp đồng, chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trước thời hạn. Chấm dứt hợp đồng đơn phương là phương thức tự bảo vệ quyền lợi của một bên trong quan hệ hợp đồng. Trong trường hợp này, việc duy trì thực hiện hợp đồng sẽ đem lại hậu quả bất lợi cho họ. Chính vì vậy, khi đơn phương chấm dứt hợp đồng bên chấm dứt sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Theo đó, một bên chỉ được chấm dứt hợp đồng trong các trường hợp sau:
Trường hợp 1: Khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của hợp đồng. Khi thỏa thuận xác lập nội dung của hợp đồng các bên có thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của các bên. Trong hợp đồng quyền và nghĩa vụ của các bên đối lập tương ứng với nhau, tức quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Kể từ khi hợp đồng có hiệu lực, quyền và nghĩa vụ của các bên cũng sẽ phát sinh, và họ phải thực hiện đúng, đầy đủ nội dung về quyền và nghĩa vụ đã được ghi nhận trong hợp đồng. Nếu một bên, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng không đầy đủ nghĩa vụ thì sẽ làm ảnh hưởng đến lợi ích của bên kia. Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng có được thực hiện hay không phụ thuộc vào mức độ của hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra. Theo đó, chỉ khi một bên có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thì bên còn lại mới có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng. Tùy thuộc vào tính chất, giá trị của hợp đồng mà xác định được hành vi vi phạm nghiêm trọng hay không, việc xác định dựa trên cơ sở pháp luật, cụ thể khoản 2 Điều 423 BLDS năm 2015 quy định: “Vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”.
Trường hợp 2: Theo thỏa thuận của các bên. Hợp đồng được xác lập trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết. Chính vì vậy, các bên có thể thảo thuận điều kiện làm đơn phương chấm dứt hợp đồng, theo đó khi điều kiện đó xảy ra thì một bên được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng.
Trường hợp 3: Theo quy định của pháp luật. Nếu pháp luật có quy định về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng, thì một bên trong quan hệ hợp đồng được quyền thực hiện đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không phụ thuộc vào ý chí của bên kia.
Đây là các trường hợp mà pháp luật cho phép một bên được đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không cần phải bồi thường thiệt hại. Các trường hợp này, đề có điểm chung là việc tiếp tục thực hiện hợp đồng sẽ không đem lại lợi ích cho một bên, thậm chí có thể gây thiệt hại cho họ. Trong trường hợp này, việc chấm dứt hợp đồng được xem là phương thức mà pháp luật trao cho chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng, để bảo vệ lợi ích của mình. Việc hợp đồng chấm dứt sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định, vì vậy, nếu không phải một trong 03 trường hợp trên các bên không có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng. Mọi hành vi chấm dứt hợp đồng đơn phương không thuộc 03 trường hợp trên, đều bị xem là vi vi phạm nghĩa vụ dân sự, và bên vi phạm đương nhiên phải chịu trách nhiệm dân sự.
-Bên đơn phương chấm dứt hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Đây là quy định bắt buộc, giống với khi một bên hủy bỏ hợp đồng, theo đó bên đơn phương phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc hủy bỏ hợp đồng. Việc thông báo cho bên kia biết để họ có thời gian chuẩn bị phương án tiếp ứng, tránh việc gây thiệt hại cho họ. Căn cứ theo quy định trên, việc không thông báo sẽ không làm ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của việc đơn phương thực hiện chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên, vì đây là nghĩa vụ bắt buộc đối với bên đơn phương chấm dứt hợp đồng, nên việc không thực hiện bị xem là hành vi vi phạm nghĩa vụ, và bên vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên kia.
-Thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm hợp đồng chấm dứt. Chính vì vậy, mà pháp luật quy định bắt buộc bên đơn phương chấm dứt hợp đồng phải thông báo cho bên kia biết về việc hợp đồng chấm dứt. Trong trường hợp này, thời điểm được xác định là khi bên kia nhận được thông báo vì, khi chấm dứt hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên cũng chấm dứt. Nếu bên có nghĩa vụ chưa nhận được thông báo, không biết về việc hợp đồng đã chấm dứt thì có thể họ vẫn sẽ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, không chỉ làm mất thời gian, công sức, chi phí mà còn có thể sẽ xảy ra tranh chấp sau này.
Khi thời điểm chấm dứt hiệu lực hợp đồng có hiệu lực, các bên không cần tiếp tục thực hiện quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng nữa. Bởi quyền và nghĩa vụ là một phần nội dung của hợp đồng, nếu hợp đồng chấm dứt hiệu lực thì toàn bộ nội dung của hợp đồng cũng chấm dứt. Trừ những thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, và thỏa thuận giải quyết tranhk chấp, vì đây là những thỏa thuận mới phát sinh và có hiệu lực khi hợp đồng chấm dứt.
Vì hợp đồng chấm dứt sau khi có hiệu lực và được đưa vào thực hiện trên thực tế. Nên tại thời điểm chấm dứt có thể bên có nghĩa vụ đã thực hiện một phần nghĩa vụ với bên có quyền. Do đó, họ có quyền yêu cầu bên có quyền thanh toán cho mình giá trị toàn bộ nghĩa vụ mà họ đã thực hiện.
-Căn cứ theo quy định về các trường hợp làm căn cứ chấm dứt hợp đồng, nếu hợp đồng chấm dứt do hành vi vi phạm nghĩa vụ nghiêm trọng của một bên mà gây thiệt hại cho bên kia, thì sẽ phải bồi thường thiệt hại. Thông thường, trên thực tế bên có lỗi không thể là bên tuyên bố đơn phương. Bởi vì việc đơn phương chấm dứt hợp đồng là quyền của một bên trong hợp đồng, nên việc thực hiện quyền không thể coi là có lỗi.
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết hỏi đáp Luật Dân sự
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh