Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:56:41 (GMT+7)

Trường hợp ủy quyền có thù lao, bên ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào....

1.Căn cứ pháp lý

Cũng như những hợp đồng dân sự khác, các chủ thể trong hợp đồng ủy quyền đều có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo quy định của pháp luật. Cụ thể, Điều 569 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền như sau:

Điều 569. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền
1. Trường hợp ủy quyền có thù lao, bên ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải trả thù lao cho bên được ủy quyền tương ứng với công việc mà bên được ủy quyền đã thực hiện và bồi thường thiệt hại; nếu ủy quyền không có thù lao thì bên ủy quyền có thể chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên được ủy quyền một thời gian hợp lý.
Bên ủy quyền phải báo bằng văn bản cho người thứ ba biết về việc bên ủy quyền chấm dứt thực hiện hợp đồng; nếu không báo thì hợp đồng với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc phải biết về việc hợp đồng ủy quyền đã bị chấm dứt.
2. Trường hợp ủy quyền không có thù lao, bên được ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên ủy quyền biết một thời gian hợp lý; nếu ủy quyền có thù lao thì bên được ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào và phải bồi thường thiệt hại cho bên ủy quyền, nếu có”

2.Nội dung

Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Hợp đồng ủy quyền mang đặc điểm là một hợp đồng đền bù hoặc không. Tính chất đền bù của hợp đồng ủy quyền không cố định mà phụ thuộc vào thỏa thuận của các bên. Nếu bên được ủy quyền không nhận thù lao thì hợp đồng ủy quyền là hợp đồng không có đền bù. Thông thường, hợp đồng ủy quyền không có đền bù diễn ra giữ các chủ thể là cá nhân với nhau, hoạt động ủy quyền chỉ mang tính chất tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong trường hợp cần thiết. Ngược lại, nếu bên được ủy quyền nhận thù lao thì hợp đồng ủy quyền là hợp đồng có đền bù. Trong nền kinh tế thị trường thì quan hệ ủy quyền có đền bù diễn ra khá phổ biến. Theo đó, bên được ủy quyền sau khi hoàn thành nghĩa vụ do bên ủy quyền giao thì sẽ nhận được một khoản tiền công theo thỏa thuận hoặc theo pháp luật quy định. Việc xác định hợp đồng ủy quyền có đền bù hay không ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng của các bên. Cụ thể:

2.1.Trường hợp ủy quyền có thù lao

Trong trường hợp các bên thỏa thuận về hợp đồng ủy quyền có thù lao, thì việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng của các bên bị ràng buộc bởi quyền nhận và nghĩa vụ trả thù lao. Do đó, làm phát sinh thêm trách nhiệm của các bên khi đơn phương chấm dứt hợp đồng.
-Đối với bên ủy quyền: Bên ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất kỳ lúc nào nhưng trả thù lao cho bên được ủy quyền tương ứng với công việc mà bên ủy quyền đã thực hiện. Có nghĩa là, tiền thù lao được thanh toán dựa trên công việc thực tế mà bên được ủy quyền đã thực hiện. Khi xác lập hợp đồng các bên có thể thỏa thuận về tiền thù lao khi bên được ủy quyền hoàn thành công việc. Tuy nhiên, hợp đồng chấm dứt khi họ mới hoàn thành một phần công việc đó, thì tiền công họ được hưởng tương ứng với công sức đã bỏ ra đó là điều hoàn toàn hợp lý. Trong trường hợp việc chấm dứt thực hiện hợp đồng gây thiệt hại cho bên được ủy quyền thì bên ủy quyền còn phải chịu trách nhiệm bồi thường. Thiệt hại xảy ra có thể chính là lợi ích mà bên được ủy quyền đáng lẽ nhận được khi hoàn thành hợp đồng, nhưng vì bên ủy quyền chấm dứt hợp đồng trước thời hạn nên họ không thể đạt được lợi ích như mong muốn. Công việc ủy quyền có thể là việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với người thứ ba, do đó, làm phát sinh trách nhiệm của bên ủy quyền trong việc thông báo cho người thứ ba biết về việc bên ủy quyền chấm dứt thực hiện hợp đồng. Bên được ủy quyền là chủ thể trực tiếp tham gia giao dịch với người thứ ba, việc hợp đồng ủy quyền chấm dứt đồng thời làm chấm dứt tư cách chủ thể trong quan hệ với người thứ ba của bên được ủy quyền. Việc thông báo nhằm đảm bảo bên thứ ba được biết, tránh tình trạng giao dịch với chủ thể không có thẩm quyền gây nên thiệt hại. Nếu bên ủy quyền không thông báo thì hợp đồng với người thứ ba vẫn có hiệu lực và bên ủy quyền phải chịu trách nhiệm. Trừ trường hợp bên thứ biết hoặc phải biết về việc hợp đồng ủy quyền đã chấm dứt nhưng vẫn tiếp tục giao dịch với bên được ủy quyền. Lúc này lỗi thuộc về bên thứ ba, do đó, họ phải tự chịu những rủi ro có thể xảy ra.
-Đối với bên được ủy quyền. Bên được ủy quyền cũng có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất kỳ lúc nào. Bên được ủy quyền vì lý do nào đó mà không thể tiếp tục thực hiện công việc ủy quyền được nữa, lúc này họ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng. Theo nguyên tắc chung, khi một bên chấm dứt thực hiện hợp đồng thì phải thông báo cho bên kia biết trong một khoảng thời gian hợp lý, để bên kia kịp thời chuẩn bị phương án đối ứng tránh xảy ra thiệt hại. Trường hợp việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng mà gây thiệt hại cho bên ủy quyền, thì bên được ủy quyền phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp bồi thường thiệt hại của bên được ủy quyền cũng giống như trách nhiệm của bên ủy quyền khi đơn phương chấm dứt hợp đồng. 

2.2.Trường hợp ủy quyền không có thù lao

Trong trường hợp các bên thỏa thuận về hợp đồng ủy quyền không có thù lao, thì việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng của các bên không bị ràng buộc bởi quyền nhận và nghĩa vụ trả thù lao. Do đó, các bên đều có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất kỳ lúc nào, nhưng phải thông báo trước cho bên còn lại một khoảng thời gian hợp lý. Hợp đồng ủy quyền không có đền bù thường phát sinh giữ những chủ thể thân quen, việc ủy quyền mang tính chất tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau vượt qua khó khăn trước mắt, không mang mục đích kinh tế. Đối với ủy quyền có thù lao, cả hai bên đều hướng tới lợi ích nhất định, việc thực hiện nghĩa vụ của một bên đòi hỏi bên kia phải đáp ứng quyền cho mình. Việc chấm dứt hợp đồng đơn phương có thể khiến cho họ không đạt được mục đích khi tham gia hợp đồng, nên mới làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong khi ủy quyền không có đền bù, bên được ủy quyền thực hiện công việc ủy quyền không thu lợi ích gì cho mình. Do đó, khi bên ủy quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng không làm ảnh hưởng tới lợi ích của bên được ủy quyền. Còn đối với bên ủy quyền, vốn dĩ được bên được ủy quyền thực hiện công việc thay mà không phải trả lại bất kỳ lợi ích gì cho họ, nên khi bên được ủy quyền chấm dứt hợp đồng trước thời hạn họ không có quyền yêu cầu được bồi thường. 

 Xem thêm: Tổng hợp các bài viết hỏi đáp Luật Dân sự

Luật Hoàng Anh

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư  vn  min  phí  ngay Chat  vi  lut  sư