Hiệu lực của thế chấp tài sản?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:04 (GMT+7)

Hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác

1.Căn cứ pháp lý

Thế chấp tài sản là một giao dịch dân sự được điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật. Do đó, để thế chấp tài sản làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên, thì hợp đồng thế chấp phải đảm bảo các điều kiện có hiệu lực mà pháp luật quy định. Điều 319 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về hiệu lực của thế chấp tài sản như sau:

Điều 319. Hiệu lực của thế chấp tài sản
1. Hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
2. Thế chấp tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký”.

2.Nội dung

-Pháp luật không quy định cụ thể về hình thức của hợp đồng thế chấp, vậy nên, các bên có thể tùy ý thỏa thuận lựa chọn bất kỳ hình thức hợp đồng nào mà các bên cầm thấy phù hợp, và thuận tiện nhất. Theo Điều 119 BLDS năm 2015 thì giao dịch thế chấp tài sản có thể được thể hiện bằng văn bản, hoặc lời nói, hoặc hành vi cụ thể. Tuy nhiên, tùy vào từng loại tài sản thế chấp mà pháp luật cũng quy định bắt buộc về hình thức thể hiện của hợp đồng thế chấp tài sản. Ví dụ như đối với tài sản thế chấp là đất đai, nhà cửa, công trình xây dựng gắn liền với đất đai. Không những pháp luật bắt buộc giao dịch thế chấp loại tài sản này phải được lập thành văn bản, mà còn phải công chứng, chứng thực. Vì bất động sản là tài sản đặc thù, gắn với quyền sử dụng đất của chủ thể được pháp luật ghi nhận, và được điều chỉnh bởi văn bản quy phạm pháp luật riêng như Luật đất đai, cùng các nghị định, thông tư hướng dẫn riêng. 
-Theo đó, dù tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào thì hợp đồng thế chấp cũng phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm giao kết. Mà thời điểm giao kết hợp đồng được xác định theo quy định tại Điều 400 BLDS năm 2015, cụ thể:

Điều 400. Thời điểm giao kết hợp đồng
1. Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của thời hạn đó.
3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng.
4. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.
Trường hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định theo khoản 3 Điều này”.

-Có thể thấy, tùy vào từng hình thức hợp đồng, mà thời điểm giao kết hợp đồng được xác định không giống nhau. Theo đó,thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chính là thời điểm mà các bên giao kết hợp đồng. Do đó, phải xác định được thời điểm giao kết hợp đồng. Quyền và nghĩa vụ của các bên cũng phát sinh kể từ thời điểm hợp đồng thế chấp có hiệu lực. Thế chấp tài sản được hình thành dựa trên thỏa thuận của các bên trong quan hệ nghĩa vụ, vì vậy, pháp luật tôn trọng thỏa thuận của các bên trong mọi trường hợp (không trái với quy định chung của pháp luật). Hiệu lực của hợp đồng thế chấp tài sản có thế được xác định theo thỏa thuận của các bên. Các bên có thể thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng mà không cần phụ thuộc vào thời điểm giao kết hợp đồng, thời điểm có hiệu lực có thể là trước hoặc sau thời điểm giao kết hợp đồng. Hoặc pháp luật có thể quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thế chấp tài sản tùy vào đặc điểm của từng giao dịch cụ thể và đối tượng của giao dịch đó. 
-Hiệu lực đối kháng với người thứ ba có thể hiểu là khi xác lập giao dịch bảo đảm, quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch không chỉ phát sinh đối với hai bên, mà trong một số trường hợp còn phát sinh hiệu lực đối với bên thứ ba chiếm giữ tài sản. Theo đó, bên nhận thế chấp có quyền truy đòi tài sản thế chấp từ bên thứ ba. Thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba là từ thời điểm đăng ký thế chấp tài sản. Khoản 1 Điều 297 BLDS năm 2015 quy định: “Biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm”. Trong giao dịch thế chấp tài sản, bên nhận thế chấp không thực hiện chiếm giữ tài sản, tài sản thế chấp vẫn do bên thế chấp chiếm hữu, sử dụng. Do đó, thế chấp tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký biện pháp bảo đảm. Pháp luật không bắt buộc phải đăng ký biện pháp đảm, tuy nhiên, theo quy định này nếu giao dịch thế chấp chấp tài sản có bên thứ 3 chiếm giữ tài sản thì bắt buộc phải đăng ký biện pháp bảo đảm. Nếu không đăng ký thì bên nhận thế chấp sẽ phải chịu rủi ro khi không thể truy đòi tài sản từ bên thứ ba.
Xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thế chấp có vai trò quan trọng. Đó là thời điểm ràng buộc quyền, nghĩa vụ các bên trong giao dịch, đồng thời, là căn cứ để xác định thời hạn thực hiện nghĩa vụ của bên mang nghĩa vụ và thời hiệu khởi kiện nếu có tranh chấp xảy ra.

 Xem thêm: Tổng hợp các bài viết hỏi đáp Luật Dân sự

Luật Hoàng Anh

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư  vn  min  phí  ngay Chat  vi  lut  sư