2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Khi thực hiện hợp đồng vì một lý do nào đó mà bên có nghĩa vụ không còn đủ khả năng để tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, dẫn đến không đáp ứng được quyền lợi của bên có quyền. Lúc này để tránh xảy ra thiệt hại cho các bên, pháp luật đã cho phép bên có quyền được hủy hợp đồng. Điều 425 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về hủy bỏ hợp đồng không có khả năng thực hiện như sau:
“Điều 425. Hủy bỏ hợp đồng do không có khả năng thực hiện
Trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình làm cho mục đích của bên có quyền không thể đạt được thì bên có quyền có thể hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại”
-Hủy bỏ hợp đồng là việc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên trong hợp đồng. Mặc dù mục đích của các bên trong hợp đồng khác nhau, và mỗi hợp đồng được giao kết lại nhằm đáp ứng một lợi ích khác của các chủ thể. Tuy nhiên, dù lợi ích đó là gì, thì nó cũng là điều mà các bên hướng đến khi tham gia giao kết hợp đồng. Mà trong quan hệ hợp đồng quyền và nghĩa vụ của các bên có quan hệ đối lập tương ứng nhau, tức quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia. Chính vì vậy, trong trường hợp bên có nghĩa vụ không có khả năng thực hiện hợp đồng thì lợi ích của bên kia sẽ không được thỏa mãn. Do đó, pháp luật đã cho phép họ bảo vệ lợi ích của mình thông qua việc hủy hợp đồng. Bên có nghĩa vụ không có khả năng thực hiện nghĩa vụ được hiểu là bên có nghĩa vụ không có đủ các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện nghĩa vụ như khả năng về tài chính, khả năng về sức khỏe, khả năng về trình độ,..hoặc có thể do sự tác động của yếu tố khách quan khiến cho bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ.
-Việc hủy hợp đồng trong trường hợp này xuất phát từ chính hành vi của bên vi phạm. Khi thỏa thuận xác lập hợp đồng, các bên đã thỏa thuận về nội dung nghĩa vụ và quyền dân sự. Hợp đồng chỉ hình thành khi các bên đồng ý nhất trí với những điều khoản của hợp đồng. Chính vì, hợp đồng là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí nên các bên cần phải có trách nhiệm với nội dung của hợp đồng. Do đó, bên có nghĩa vụ đã đẩy mình vào hoàn cảnh không thể thực hiện hợp đồng chính là vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, và xâm phạm đến lợi ích của bên có quyền. Việc hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp này thực chất là biện pháp phòng vệ, khi xảy ra tình huống xấu mà bên có quyền vẫn có thể bảo vệ lợi ích cho mình.
-Theo nguyên tắc, khi một chủ thể có hành vi vi phạm thì phải chịu trách nhiệm cho hành vi đó. Trong quan hệ hợp đồng không thực hiện nghĩa vụ chính là hành vi vi phạm nghĩa vụ đã thỏa thuận, gây thiệt hại cho người khác, nên phải chịu trách nhiệm dân sự. Theo đó, trách nhiệm mà bên vi phạm phải chịu là hợp đồng sẽ bị hủy bỏ theo ý chí của bên kia, và họ còn phải bồi thường thiệt hại cho bên kia một khoản vừa bằng với lợi ích mà bên có quyền đáng được nhận khi tham gia giao kết hợp đồng. Bên hủy bỏ hợp đồng là đang thực hiện quyền bảo vệ lợi ích của mình, nên họ không phải chịu trách nhiệm gì trong trường hợp này. Như vậy, chỉ có bên vi phạm là phải chịu trách nhiệm dân sự do hành vi của mình.
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết hỏi đáp Luật Dân sự
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh