Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:56:42 (GMT+7)

Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường...

MỤC LỤC

MỤC LỤC

1.Căn cứ pháp lý

Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân là khả năng của cá nhân đó trong việc tự mình chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho những thiệt hại gây ra bởi hành vi của mình. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân phụ thuộc vào năng lực hành vi dân sự của chính chủ thể đó. Điều 586 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về năng lực chịu trách nhiệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân như sau:

Điều 586. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
2. Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường”

2.Nội dung

Năng lực chịu trách nhiệm dân sự của cá nhân chính là khả năng của cá nhân trong việc thực hiện một loại nghĩa vụ dân sự cụ thể. Về bản chất, nói đến năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của một cá nhân chính là nói đến nói đến khả năng của cá nhân trong việc bồi thường thiệt hại. Năng lực đó phụ thuộc vào hai yếu tố là năng lực hành vi và năng lực kinh tế, trong đó năng lực hành vi là yếu tố quyết định. Trên thực tế, người gây ra thiệt hại không phải là người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Người gây ra thiệt hại có thể là bất kỳ chủ thể nào như: cá nhân, pháp nhân, tổ chức, cơ quan Nhà nước,…Nhưng người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải là người có khả năng, mặc dù họ không phải là người có hành vi gây thiệt hại. Do đó, việc xác định năng lực của chủ thể trong việc thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại có vai trò quan trọng. Căn cứ vào năng lực hành vi dân sự của cá nhân, năng lực trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân được phân chia thành các trường hợp sau:
-Một là, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người từ đủ 18 tuổi. Người từ đủ 18 tuổi là nhóm người thành niên có đầy đầy đủ năng lực hành vi dân sự, thì phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình, trong đó có cả trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Khi xem xét đến trách nhiệm của người từ đủ 18 tuổi trở lên, cần xác định năng lực kinh tế của họ. Như đã trình bày ở trên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại không chỉ phụ thuộc vào năng lực hành vi mà còn phụ thuộc cả vào năng lực kinh tế của chủ thể đó. Người đủ 18 tuy có đầy đủ năng lực hành vi, nhưng khả năng tài sản trên thực tế vẫn chưa có. Thông thường, họ chưa có bất kỳ khoản thu nhập nào, do đó, tài sản để chịu trách nhiệm bồi thường là không có. Vì vậy, khi quyết định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của những người này, có thể xem xét đến việc cha, mẹ thực hiện thay. Về mặt pháp lý, người từ đủ 18 tuổi phải tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình, vì vậy, không thể buộc cha, mẹ phải thực hiện thay trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho con cái của họ, mà chỉ có thể động viên và ghi nhận sự tự nguyện của họ.
-Hai là, năng lực chịu trách nhiệm của người dưới 18 tuổi. Người dưới 18 tuổi là những người chưa thành niên, chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Khi họ có hành vi gây thiệt hại, việc xác định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường phụ thuộc vào độ tuổi của họ tại thời điểm gây thiệt hại mà có sự khác nhau trong quy định của pháp luật, cụ thể:
(1) Đối với người chưa đủ 15 tuổi. Người dưới 15 tuổi có thể có một phần năng lực hành vi dân sự, nhưng lại chưa đủ năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, vì vậy cha mẹ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Bên cạnh đó, nhóm người này vẫn đang chịu sự quản lý, chăm sóc của cha mẹ và đang trong thời kỳ hoàn thiện nhận thức về hành vi của mình và hậu quả đem lại. Vì vậy, khi họ có hành vi gây thiệt hại, cha mẹ với tư cách là người giám hộ có một phần lỗi trong việc giáo dục, quản lý con cái phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị thiệt hại. Tuy nhiên, nếu tài sản của cha mẹ mà không đủ để chịu trách nhiệm bồi thường, thì phần còn lại được trích ra từ tài sản riêng của con cái (nếu con cái có tài sản riêng như thừa kế, tặng cho,…). Quy định này không nhằm xác định trách nhiệm của con cái với phần bồi thường còn thiếu mà nhằm bảo vệ lợi ích cho người bị thiệt hại, đảm bảo nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời theo quy định pháp luật. Trong trường hợp người chưa đủ 15 tuổi trong thời hạn trường học trực tiếp quản lý mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
(2) Đối với người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi. Độ tuổi từ 15 đến dưới 18 tuổi được xác định là có một phần năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, vậy nên họ phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại gây ra bằng tài sản của mình. Bởi pháp luật quy định, người trong độ tuổi này có tham gia ký kết các hợp đồng lao động để có thu nhập riêng. Tuy nhiên, người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi có thể không có tài sản riêng, lúc này để bảo vệ lợi ích của bên bị thiệt hại pháp luật buộc cha, mẹ phải bồi thường thiệt hại thay con cái. Quy định này khác với quy định đối với người từ đủ 8 tuổi. Đối với người từ đủ 18 tuổi, việc cha mẹ chịu trách nhiệm bồi thường thay con cái mang tính chất tự nguyện, không bị bắt buộc (khi con cái không có tài sản riêng). Nhưng đối với người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi thì cha mẹ có nghĩa vụ bắt buộc phải chịu trách nhiệm thay con cái khi con cái không có tài sản riêng. Trên thực tế, mặc dù cho phép người từ đủ 15 tuổi có thể tham gia ký kết các hợp đồng lao động, nhưng thông thường ở độ tuổi này phần lớn vẫn đang đi học, được cha mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng. Những tài sản riêng hình thành từ nguồn khác như được thừa kế, được tặng cho,…không phổ biến. Vì vậy, việc chịu trách nhiệm bồi thường chủ yếu do cha mẹ thực hiện.
-Ba là, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người được giám hộ. Những người được giám hộ là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi. Theo quy định của pháp luật, khi người được giám hộ gây thiệt hại thì đặt ra hai trường hợp:
(1) Người được giám hộ có tài sản riêng. Nếu người được giám hộ gây thiệt hại mà có tài sản riêng thì người giám hộ được dùng tài sản đó để bồi thường. 
(2) Người được giám hộ không có tài sản hoặc tài sản không đủ để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình. Quy định này nhằm ràng buộc trách nhiệm của người giám hộ trong việc thực hiện tốt công việc quản lý, chăm sóc người được giám hộ, đồng thời bảo vệ lợi ích của người bị thiệt hại. Tuy nhiên nếu người giám hộ chứng minh được họ không có lỗi trong việc giám hộ thì họ không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. 

 Xem thêm: Tổng hợp các bài viết hỏi đáp Luật Dân sự

Luật Hoàng Anh

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư