Nghĩa vụ thanh toán khi được thực hiện công việc không có ủy quyền?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:56:41 (GMT+7)

Người có công việc được thực hiện phải tiếp nhận công việc khi người thực hiện công việc không có ủy quyền bàn giao công việc và thanh toán các chi phí hợp lý...

1.Căn cứ pháp lý

Khoản 3 Điều 275 BLDS năm 2015 quy định, thực hiện công việc không có ủy quyền là một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự. Theo đó, nghĩa vụ không chỉ phát sinh với người thực hiện công việc mà còn phát sinh với cả người có công việc được thực hiện. Điều 576 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về nghĩa vụ của bên có công việc được thực hiện như sau:

Điều 576. Nghĩa vụ thanh toán của người có công việc được thực hiện
1. Người có công việc được thực hiện phải tiếp nhận công việc khi người thực hiện công việc không có ủy quyền bàn giao công việc và thanh toán các chi phí hợp lý mà người thực hiện công việc không có ủy quyền đã bỏ ra để thực hiện công việc, kể cả trường hợp công việc không đạt được kết quả theo ý muốn của mình.
2. Người có công việc được thực hiện phải trả cho người thực hiện công việc không có ủy quyền một khoản thù lao khi người này thực hiện công việc chu đáo, có lợi cho mình, trừ trường hợp người thực hiện công việc không có ủy quyền từ chối”

2.Nội dung

Chủ thể có công việc được thực hiện có thể là cá nhân, tổ chức có thể là chủ sở hữu hoặc không. Thời điểm làm phát sinh nghĩa vụ của các bên trong quan hệ dân sự thực hiện công việc không có ủy quyền, là khi công việc được bắt đầu thực hiện. Nhưng tại thời điểm phát sinh nghĩa vụ đó, chỉ có nghĩa vụ của bên thực hiện công việc là bắt buộc phải thực hiện ngay. Còn đối với bên có công việc được thực hiện, mặc dù nghĩa vụ cũng phát sinh tại thời điểm công việc được thực hiện nhưng phải đến khi người thực hiện công việc bàn giao công việc thì họ mới cần thực hiện nghĩa vụ của mình. Theo đó, chủ thể có công việc được thực hiện có nghĩa vụ như sau:
-Một là, phải tiếp nhận công việc khi người thực hiện công việc không có ủy quyền bàn giao công việc. Đây là nghĩa vụ cơ bản và là đầu tiên của người có công việc. Trên cơ sở tiếp nhận công việc, mới có căn cứ để xác định việc bên thực hiện công việc đã hoàn thành nghĩa vụ, đồng thời là cơ sở để xem xét thực hiện những nghĩa vụ khác có liên quan đối với người thực hiện công việc. Quy định dựa trên nguyên tắc chung của pháp luật về việc quy định bên có quyền phải tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Nghĩa vụ tiếp nhận không chỉ phát sinh khi công việc được hoàn thành, mà còn phát sinh đối với cả trường hợp công việc chưa hoàn thành do bên thực hiện công việc có lý do chính đáng không thể tiếp tục thực hiện công việc. Như vậy, căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ này là dựa vào hành vi chuyển giao công việc của bên thực hiện công việc, chứ không phải dựa vào kết quả của công việc đó. 
-Hai là, phải thanh toán chi phí hợp lý mà người thực hiện công việc không ủy quyền đã bỏ ra để thực hiện công việc. Không giống như nghĩa vụ tiếp nhận công việc, nghĩa vụ thanh toán chi phí là nghĩa vụ nhằm bù đắp cho những lợi ích mà bên thực hiện nghĩa vụ đã bỏ ra để hoàn thành công việc đó. Việc không thanh toán các khoản chi phí này sẽ làm ảnh hưởng đến lợi ích của bên có công việc được thực. Đây là những chi phí cần thiết mà người thực hiện công việc phải bỏ ra nhằm ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho người có công việc. Tức, nếu người thực hiện công việc không bỏ ra những khoản chi phí này thì sẽ người có công việc sẽ phải gánh chịu thiệt hại. Do đó, người có công việc được thực hiện phải trả chi phí này kể cả khi công việc diễn ra không theo ý muốn. Nghĩa vụ này chỉ phát sinh khi người thực hiện công việc phải bỏ chi phí để thực hiện công việc đó. Trên thực tế, có những công việc khi thực hiện chủ thể chỉ bỏ ra công sức mà không phải bỏ ra thêm bất kỳ khoản chi nào, do đó, bên có công việc được thực hiện không có nghĩa vụ thanh toán này. 
-Ba là, phải trả thù lao cho người thực hiện công việc. Để thực hiện công việc, chủ thể thực hiện không chỉ phải bỏ ra chi phí mà còn phải bỏ ra công sức, thời gian của mình để thực hiện. Vì vậy, pháp luật quy định người có công việc được thực hiện phải thanh toán cho người thực hiện công việc một khoản thù lao nhất định. Quy định về việc trả thù lao là điều hoàn toàn phù hợp. Bản chất của thực hiện công việc không có ủy quyền là hành vi của một bên chủ thể thực hiện công việc cho người khác mà không có thỏa thuận hay ủy quyền từ người đó, nhằm mục đích tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Công việc được thực hiện xuất phát từ lợi ích của người có công việc, người thực hiện công việc thiện chí, tự nguyện giúp đỡ. Nên bên có công việc cần thanh toán cho họ thù lao phù hợp với thời gian, công sức họ bỏ ra để thực hiện công việc cho mình. Việc trả thù lao có thể xuất phát từ thiện chí của người có công việc được thực hiện, tuy nhiên cũng có thể xuất phát từ ý chí của người thực hiện công việc. Họ thực hiện công việc xuất phát từ mục đích là nhận thù lao, điều đó có thể dẫn đến công việc thực hiện không tốt, họ chỉ thực hiện cho có để nhận tiền. Vì vậy, để bảo vệ lợi ích của bên có công việc, đồng thời nâng cao ý thức của người thực hiện xem công việc thực hiện như công việc của chính mình. Pháp luật đã quy định, nghĩa vụ trả thù lao chỉ được thực hiện khi có các điều kiện sau:
(1) Công việc được thực hiện một cách chu đáo. Bên có công việc được thực hiện theo dõi, kiểm tra quá trình thực hiện công việc của người thực hiện và kết quả của quá trình đó, mà xác định xem công việc có được thực hiện chu đáo hay không. Điều này xuất phát từ nguyên tắc khi thực hiện công việc không có ủy quyền, chủ thể thực hiện phải thực hiện như công việc của chính mình.
(2) Việc thực hiện công việc đem lại lợi ích cho bên có công việc. Lợi ích từ việc thực hiện công việc không có ủy quyền có thể là đem lại cho bên có công việc một quyền lợi cụ thể, hoặc chỉ là ngăn chặn, hạn chế thiệt hại xảy ra. Quy định này xuất phát từ bản chất của thực hiện công việc không có ủy quyền, là thực hiện công việc dựa trên thiện chí và vì lợi ích của bên có công việc.
(3) Người thực hiện công việc đồng ý nhận thù lao. Tiền thù lao không phải nghĩa vụ chính của thực hiện công việc không có ủy quyền. Nó chỉ mang tính chất hỗ trợ cho thời gian, công sức mà người thực hiện đã bỏ ra, là thiện chí của người có công việc được thực hiện. Tiền thù lao cũng không phải mục đích chính để chủ thể tham gia thực hiện công việc cho người khác. Vậy nên, nếu người thực hiện công việc từ chối nhận thù lao thì người có công việc không cần thanh toán.

 Xem thêm: Tổng hợp các bài viết hỏi đáp Luật Dân sự

Luật Hoàng Anh

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư  vn  min  phí  ngay Chat  vi  lut  sư