2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Di chúc trong quan hệ tư pháp quốc tế điều chỉnh hai vấn đề là năng lực của người lập di chúc và hình thức của di chúc. Điều 681 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về di chúc có yếu tố nước ngoài như sau:
“Điều 681. Di chúc
1. Năng lực lập di chúc, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc được xác định theo pháp luật của nước mà người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm lập, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc.
2. Hình thức của di chúc được xác định theo pháp luật của nước nơi di chúc được lập. Hình thức của di chúc cũng được công nhận tại Việt Nam nếu phù hợp với pháp luật của một trong các nước sau đây:
a) Nước nơi người lập di chúc cư trú tại thời điểm lập di chúc hoặc tại thời điểm người lập di chúc chết;
b) Nước nơi người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm lập di chúc hoặc tại thời điểm người lập di chúc chết;
c) Nước nơi có bất động sản nếu di sản thừa kế là bất động sản”
Căn cứ vào quy định trên, năng lực lập di chúc, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc do pháp luật nước nơi mà họ có quốc tịch tại thời điểm lập, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc quy định. Năng lực lập di chúc là một trong những hành vi dân sự của cá nhân, do đó sử dụng hệ thuộc luật quốc tịch là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 674 BLDS năm 2015: “năng lực hành vi dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch”. Năng lực lập, thay đổi, hủy bỏ di chúc là việc định đoạt tài sản của một cá nhân, mà định đoạt tài sản là một trong những quyền năng quan trọng không chỉ với chính chủ thể đó mà còn đối với hệ thống pháp luật. Năng lực lập di chúc là căn cứ để xác định một di chúc có được lập hợp pháp hay không. Vì vậy chọn áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch là phù hợp nhất.
Theo pháp luật Việt Nam di chúc phải được lập dưới hai hình thức là di chúc bằng văn bản hoặc di chúc bằng miệng. Tuy nhiên, trong tư pháp quốc tế di quy định về hình thức di chúc tùy thuộc vào từng trường hợp nhất định. Để được coi là hợp pháp, di chúc còn phải đảm bảo được lập dưới một hình thức nhất định phù hợp. Sự phù hợp đó được xác định theo quy định của từng hệ thống pháp luật, có thể giống hoặc khác nhau. Theo quy định tại khoản 2, thì hình thức di chúc được xác định theo pháp luật của nước nơi mà di chúc được lập. Trong quy định trên, hệ thuộc luật của nước nơi lập di chúc được ưu tiên áp dụng. Theo đó, khi xem xét tính hợp pháp về hình thức của di chúc, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải căn cứ vào nơi di chúc được lập. Pháp luật của nước nơi lập di chúc không phụ thuộc vào quốc tịch của người lập di chúc. Họ có thể là công dân nước này, nhưng lại lập di chúc tại một nước khác. Ví dụ: A là công dân Việt Nam, trong một lần sang Mỹ công tác A gặp tai nạn, biết mình không thể qua khỏi A đã tiến hành lập di chúc ngay tại bệnh viện của Mỹ. Lúc này năng lực lập di chúc của A được xác định theo pháp luật Việt Nam (nước nơi mà A có quốc tịch), những hình thức của di chúc phải tuân thủ theo pháp luật nước Mỹ (nơi di chúc được lập).
Nếu di chúc phù hợp với quy định pháp luật của nước nơi di chúc được lập, thì di chúc đó được xem là hợp pháp. Nhưng nếu di chúc được lập không phù hợp với pháp luật nước nơi di chúc được lập, thì di chúc đó không có hiệu lực. Trong trường hợp này để bảo vệ quyền lợi cho người đã chết, giúp họ thực hiện nguyện vọng được định đoạt tài sản của mình, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ xem xét đến các hệ thống pháp luật có liên quan khác. Theo đó, hình thức của di chúc cũng được công nhận tại Việt Nam nếu phù hợp với pháp luật của một trong các nước sau: Nước nơi người lập di chúc cư trú tại thời điểm lập di chúc hoặc tại thời điểm người lập di chúc chết. Nước nơi người lập di chúc cư trú tại thời điểm lập di chúc hoặc tại thời điểm người lập di chúc chết; Nước nơi người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm lập di chúc hoặc tại thời điểm người lập di chúc chết; Nước nơi có bất động sản nếu di sản thừa kế là bất động sản. Chỉ cần hình thức di chúc thỏa mãn một trong các điều kiện trên thì được xem là hợp pháp. Trên thực tế, có thể do tình thế cấp thiết mà người lập di chúc lập di chúc trong tình trạng khẩn cấp, mà không kịp tìm hiểu quy định về hình thức của di chúc tại nước nơ mình lập di chúc. Do đó, quy định này linh hoạt, mềm dẻo hơn, đảm bảo quyền lợi cho người lập di chúc để di chúc của họ được công nhận và áp dụng. Quy định này vì thế gần hơn với quy định của pháp luật quốc tế cụ thể là công ước La Haye ngày 05/10/1961 về xung đột pháp luật liên quan đến hình thức định đoạt tài sản bằng di chúc[1].
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết hỏi đáp Luật Dân sự
Luật Hoàng Anh
[1] PGS.TS.Nguyễn Văn Cừ - PGS.TS.Trần Thị Huệ,(2017), “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, NXB.Công an nhân dân
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh