Một số nghĩa vụ về tài sản khác liên quan tài sản thuê hoặc mượn khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản, tài sản nhận đảm bảo và hàng hóa đã bán?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:11 (GMT+7)

Bài viết này trình bày về nghĩa vụ về tài sản khác liên quan tài sản thuê hoặc mượn khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản, tài sản nhận đảm bảo và hàng hóa đã bán

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Ngoài các quy định Xác định tiền lãi đối với khoản nợ, Xử lý khoản nợ có bảo đảm, Thứ tự phân chia tài sản…  Luật Phá sản năm 2014 còn quy định một số nghĩa vụ về tài sản khác liên quan tài sản thuê hoặc mượn khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản, tài sản nhận đảm bảo và hàng hóa đã bán. Cụ thể như sau:

1. Về thời hạn để chủ sở hữu xuất trình giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản thuê hoặc mượn

Theo quy định tại Điều 40 Luật Phá sản năm 2004 thì “Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày tòa án ra quyết định mở thủ tục thanh lý, chủ sở hữu tài sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý thuê hoặc mượn tài sản để dùng vào hoạt động kinh doanh phải xuất trình giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, hợp đồng”. Quy trình này dẫn tới việc không bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản nếu như họ không nhận được quyết định mở thủ tục thanh lý, trường hợp họ có lý do chính đáng thì sẽ gây sự khó khăn, phức tạp cho việc giải quyết phá sản vì phát sinh tình huống mới.

Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ quy định trong trường hợp bên bảo đảm là bên có nghĩa vụ bị phá sản thì tài sản bảo đảm được xử lý theo quy định của pháp luật về phá sản và Nghị định này để thực hiện nghĩa vụ; trường hợp pháp luật về phá sản có quy định khác với Nghị định này về việc xử lý tài sản bảo đảm thì áp dụng các quy định của pháp luật về phá sản. Về phương thức xử lý tài sản bảo đảm, Nghị định này cũng thừa nhận phương thức, bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm.

Như vậy, pháp luật về giao dịch bảo đảm đều quy định ưu tiên áp dụng các quy định của pháp luật phá sản về xử lý tài sản bảo đảm. Theo quy định tại Điều 35 Luật Phá sản năm 2004 về xử lý các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố thì “Trường hợp Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thì các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố được xác lập trước khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được ưu tiên thanh toán bằng tài sản đó; nếu giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; nếu giá trị của tài sản thế chấp hoặc cầm cố lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã”. Luật Phá sản chỉ có một quy định cơ chế xử lý tài sản bảo đảm như vậy là chưa rõ ràng. Luật có quy định “các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố được xác lập trước khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được ưu tiên thanh toán bằng tài sản đó”, nhưng không rõ việc ưu tiên thanh toán được giải quyết như thế nào, dẫn đến cách hiểu và áp dụng khác nhau. Cụ thể, có Toà án căn cứ vào quy định tại Điều 35 khi ra quyết định xử lý tài sản khoản nợ có bảo đảm bằng tài sản đã cho phép bên nhận bảo đảm được nhận chính tài sản bảo đảm để thanh toán khoản nợ có bảo đảm. Tuy nhiên, lại có  ý kiến cho rằng, quyết định của Toà án như vậy là không phù hợp, theo ý kiến này, tổ quản lý và thanh lý tài sản phải tổ chức bán đấu giá tài sản bảo đảm để thu hồi tiền thanh toán nợ cho chủ nợ có bảo đảm; trường hợp số tiền thu được sau khi bán đấu giá tài sản bảo đảm không đủ thanh toán khoản nợ có bảo đảm thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản bảo đảm; nếu số tiền thu được sau khi bán đấu giá tài sản bảo đảm lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp để thanh toán cho các chủ nợ.

Khắc phục nhược điểm này, Luật Phá sản năm 2014 quy định tại Điều 56 và Điều 102 như sau:

Điều 56. Trả lại tài sản thuê hoặc mượn khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản

1. Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định tuyên bố phá sản, chủ sở hữu tài sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã thuê hoặc mượn để dùng vào hoạt động kinh doanh phải xuất trình giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, hợp đồng cho thuê hoặc cho mượn với cơ quan thi hành án dân sự để nhận lại tài sản của mình.”

Điều 102. Trả lại tài sản nhận ủy thác, nhận giữ hộ khi tổ chức tín dụng bị tuyên bố phá sản và thanh lý tài sản phá sản

Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định tuyên bố tổ chức tín dụng phá sản, chủ sở hữu tài sản ủy thác cho tổ chức tín dụng, gửi tổ chức tín dụng giữ hộ, giao tổ chức tín dụng quản lý thông qua hợp đồng ủy thác, giữ hộ, quản lý tài sản phải xuất trình giấy tờ chứng minh quyền sở hữu và hồ sơ, giấy tờ liên quan với cơ quan thi hành án dân sự để nhận lại tài sản của mình.”

Quy định này sẽ giải quyết được hai vấn đề: Thứ nhất: đảm bảo quyền lợi của chủ sở hữu tài sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã mượn hoặc thuê, vì chỉ khi họ nhận được quyết định tuyên bố phá sản thì thời hạn mới bắt đầu được tính để gửi lại giấy tờ hợp pháp nhằm nhận lại tài sản của mình; Thứ hai: việc quy định thời hạn rút ngắn còn 10 ngày là hợp lý và sẽ giúp quá trình thi hành án quyết định tuyên bố phá sản được thực hiện nhanh hơn.

2. Về trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản đã chuyển nhượng tài sản hoặc thuê mượn cho người khác mà không đòi lại được

Theo quy định của Luật Phá sản năm 2004 trường hợp tài sản thuộc quyền đòi lại đã bị doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý chuyển nhượng cho người khác thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu đòi bồi thường đối với tài sản đó như khoản nợ có bảo đảm. Tuy nhiên, trên bình diện công bằng, thì những tài sản do doanh nghiệp, hợp tác xã thuê hoặc mượn được coi như một khoản vay nợ thông thường, do đó, nếu cách thức xử lý các khoản nợ này như khoản nợ có bảo đảm là không phù hợp, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Khắc phục nhược điểm này, Luật Phá sản năm 2014 sửa đổi theo hướng trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản đã chuyển nhượng tài sản thuê hoặc mượn cho người khác mà không đòi lại được thì người cho thuê hoặc cho mượn có quyền yêu cầu bồi thường đối với tài sản đó như khoản nợ không có bảo đảm (Khoản 3 Điều 56 Luật Phá sản năm 2014).

3. Về quy định nghĩa vụ đối với tài sản nhận bảo đảm

Để đảm bảo về mặt kỹ thuật lập pháp và tính logic trong quy định của pháp luật, kế thừa và sửa đổi Điều 41 Luật Phá sản năm 2004, Luật Phá sản năm 2014 sửa đổi tên điều này thành điều 57 và trả lại tài sản nhận bảo đảm theo đó doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán chỉ trả lại tài sản nhận bảo đảm cho cá nhân, tổ chức đã giao tài sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình đối với doanh nghiệp, hợp tác xã trước khi toàn án nhân dân mở thủ tục phá sản trong trường hợp cá nhân, tổ chức đó đã thực hiện nghĩa vụ đối với doanh nghiệp, hợp tác xã.

4. Về nghĩa vụ tài sản đối với hàng hóa đã bán

Kế thừa quy định tài điều 42 Luật Phá sản năm 2004, đồng thời để bảo đảm quyền lợi cho người bán hàng hóa cho doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, điều 58 Luật Phá sản năm 2014 về nhận lại hàng hóa đã bán bổ sung thêm quy định:

Điều 58. Nhận lại hàng hóa đã bán

Người bán đã gửi hàng hóa cho người mua là doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán nhưng chưa được thanh toán và người mua cũng chưa nhận được hàng hóa thì người bán được nhận lại hàng hóa đó. Nếu doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán đã nhận hàng hóa đó và không thể trả lại được thì người bán trở thành chủ nợ không có bảo đảm.”

Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Luật Phá sản

Luật Hoàng Anh

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư