Những giao dịch nào của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán bị coi là vô hiệu?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:11 (GMT+7)

Bài viết này trình bày về những giao dịch nào của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán bị coi là vô hiệu

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Luật Phá sản Việt Nam tiếp cận hoàn toàn theo tiêu chí khách quan khi đưa ra những điều kiện rất cụ thể quy định những trường hợp nào thì giao dịch sẽ bị vô hiệu mà không đề cập tới bất kỳ yếu tố chủ quan nào, như là việc xác định có lỗi của các bên và ý chí của các bên khi thực hiện giao dịch… Việc chỉ sử dụng tiêu chí khách quan để quy định những trường hợp nào giao dịch bị vô hiệu sẽ tạo tòa án căn cứ rõ ràng để tuyên bố giao dịch vô hiệu mà không cần xem xét đến ý chí của các bên thực hiện giao dịch, rút ngắn được thời gian xử lý yêu cầu tuyên bố phá sản. Chỉ cần giao dịch đó đáp ứng đủ yếu tố mà pháp luật đã dự liệu, Tòa án có thể tuyên bố ngay giao dịch đó vô hiệu. Theo đó, Điều 59 Luật Phá sản năm 2014 quy định những giao dịch thỏa mãn những tiêu chí sau sẽ bị coi là vô hiệu:

1. Tiêu chí về thời gian

Luật Phá sản năm 2004 và 2014 đều phân loại các giao dịch vô hiệu thành hai loại, loại thứ nhất đó là những giao dịch được xác lập trước khi bắt đầu thủ tục phá sản và loại thứ hai là những giao dịch xác lập sau khi thủ tục phá sản được tiến hành. Theo đó, Luật Phá sản năm 2004 quy định rằng những giao dịch mà thực hiện trong khoảng thời gian 03 tháng trước khi Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì sẽ bị tuyên vô hiệu và sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản sẽ bị cấm nếu thuộc vào một trong những loại giao dịch nhất định mà luật quy định. Song, Luật Phá sản năm 2004 lại để một khoảng trống pháp lý khi quy định một khoảng thời gian 30 ngày kể từ ngày thụ lý thì Tòa án mới ra quyết định mở thủ tục phá sản hay không.

Để khắc phục lỗ hổng pháp lý này, Luật Phá sản năm 2014 đã có sửa đổi tại Điều 59 như sau: “Giao dịch của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán được thực hiện trong thời gian 06 tháng trước ngày Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu”. Như vậy, Luật Phá sản năm 2014 đã có những thay đổi trong quy định trên so với Luật Phá sản năm 2004 sau:

Thứ nhất, kéo dài thời gian 06 tháng so với 03 tháng như trước đây.

Quy định về khoảng thời gian 06 tháng tạo cảm giác rằng, nhà làm luật đã có xu hướng tăng khoảng thời gian hồi tố. Tuy nhiên, thực tế thì khoảng thời gian hồi tố này không thay đổi so với Luật Phá sản năm 2004, bởi vì, Khoản 1 Điều 5 Luật Phá sản năm 2014 quy định: “Chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán”. Trong khi Luật Phá sản năm 2004 quy định: “Khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó” (Khoản 1 Điều 13 Luật Phá sản năm 2004); “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản” (Điều 3 Luật Phá sản năm 2004). Như vậy, Luật Phá sản năm 2004 tuy đã tăng khoảng thời gian hồi tố 06 tháng nhưng lại đẩy lùi quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản 03 tháng kể từ khi doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán khoản nợ đến hạn.

Thứ hai, về mốc thời điểm tính khoảng thời gian hồi tố, Luật Phá sản năm 2014 đã có một bước tiến bộ hơn so với Luật Phá sản năm 2004 khi quy định về loại thời gian hồi tố dài hơn nếu giao dịch được thực hiện giữa con nợ và những người liên quan. Khoản 2, Khoản 3 Điều 59 Luật Phá sản năm 2014 nêu rõ:

Điều 59. Giao dịch bị coi là vô hiệu

2. Giao dịch của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán quy định tại khoản 1 Điều này được thực hiện với những người liên quan trong thời gian 18 tháng trước ngày Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản thì bị coi là vô hiệu.

3. Những người liên quan quy định tại khoản 2 Điều này bao gồm:

a) Công ty mẹ, người quản lý công ty mẹ và người có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý đối với công ty con;

b) Công ty con đối với công ty mẹ; doanh nghiệp do hợp tác xã thành lập đối với hợp tác xã;

c) Người hoặc nhóm người có khả năng chi phối việc ra quyết định của cơ quan quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã đối với hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã đó;

d) Người quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã đối với doanh nghiệp, hợp tác xã;

đ) Vợ, chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh, chị, em ruột của người quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của thành viên, cổ đông sở hữu phần vốn góp hay cổ phần chi phối;

e) Cá nhân được ủy quyền đại diện cho những người quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản này;

g) Doanh nghiệp trong đó những người quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e và h khoản này có sở hữu đến mức chi phối việc ra quyết định của cơ quan quản lý ở doanh nghiệp đó;

h) Nhóm người thỏa thuận cùng phối hợp để thâu tóm phần vốn góp, cổ phần hoặc lợi ích ở công ty hoặc để chi phối việc ra quyết định của công ty.”

Việc quy định khoảng thời gian hồi tố nhiều hơn đối với những giao dịch với bên liên quan này là cần thiết, bởi vì những người liên quan kể trên có quan hệ mật thiết nhất với con nợ và nắm bắt rõ nhất tình hình kinh tế cũng như tài chính của con nợ và có khả năng tạo ra quyền lực nhất định để chi phối quyết định của con nợ, tạo ra những lợi thế rõ ràng so với những bên khác khi tham gia giao dịch với doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trên.

2. Tiêu chí về mục đích, nội dung của giao dịch

Luật Phá sản chia thành hai khoảng thời gian trước và sau khi Tòa án có quyết định mở thủ tục phá sản. Cụ thể:

2.1. Những giao dịch trước khi tiến hành mở thủ tục phá sản

Theo quy định tại Điều 59 Luật Phá sản năm 2014, các loại giao dịch sau đây bị coi là vô hiệu nếu được thực hiện trong khoảng thời gian sáu tháng trước Tòa án có quyết định mở thủ tục phá sản:

a. Giao dịch liên quan đến chuyển nhượng tài sản không theo giá thị trường

Con nợ khi đang cần tiền mặt sẽ bán thốc tài sản với giá rất thấp dưới giá trị thực của chúng nhằm đạt được kết quả một cách nhanh nhất mà không có bất kỳ ý định lừa dối hay tẩu tán tàn sản như nói trên. Tuy nhiên, hậu quả rõ ràng là làm giảm sút khối tài sản phá sản của con nợ. Vì lý do đó, Luật Phá sản đã dự liệu trường hợp này và liệt kê vào danh mục đầu tiên các giao dịch bị coi là vô hiệu.

b. Chuyển khoản nợ không bảo đảm thành nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã

Việc chuyển những khoản nợ không có bảo đảm thành những khoản nợ có bảo đảm sẽ dẫn đến thứ tự ưu tiên trả nợ bị đảo lộn. Những chủ nợ mà trước đây không có bảo đảm sẽ có thứ tự ưu tiên trả nợ sau những chủ nợ đã có bảo đảm nay sẽ ngang hàng với những chủ nợ có bảo đảm, và như vậy sẽ dẫn đến sự mất công bằng đối với những chủ nợ không có bảo đảm khi mà giá trị của khối tài sản phá sản để trả nợ cho những chủ nợ không có bảo đảm bị giảm sút.

c. Thanh toán hoặc bù trừ có lợi cho một chủ nợ đối với khoản nợ chưa đến hạn hoặc với số tiền lớn hơn khoản nợ đến hạn

Về bản chất thương mại, thì việc thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn không phải là hành vi bất thường, ngay cả khi việc thanh toán hoặc bù trừ đó với số tiền lớn hơn khoản nợ đến hạn. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng không thể trả được những khoản nợ tới hạn mà có hành vi trả nợ như vậy thì đây là một hành vi không bình thường. Việc ưu ái cho một bên nhất định đi ngược với nguyên tắc thanh toán nợ tập thể. Ngoài ra, các giao dịch này có đặc điểm là sự không tương xứng về lợi ích giữa các bên tham gia, bên thương nhân bị phá sản có nghĩa vụ lớn hơn so với bên kia, hay nói cách khác, lợi ích mà doanh nghiệp này nhận lại ít hơn so với lợi ích phải mất đi. So với giao dịch tặng cho, con nợ trong giao dịch thanh toán hợp đồng song vụ vẫn được hưởng một số quyền lợi nhất định, nhưng rõ ràng quyền lợi đó là ít hơn nhiều so với những gì mà cơn nợ bỏ ra. Hay thực chất là con nợ đã bỏ bớt quyền thụ hưởng chính đáng của mình.

d. Tặng cho tài sản

Đây là giao dịch được liệt kê trong danh mục các giao dịch được tuyên bố vô hiệu, vì bản chất của chúng đi ngược lại với mục tiêu tiên quyết trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, trong mọi trường hợp thì các giao dịch này cũng bị tuyên vô hiệu. Tặng cho ở đây phải hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các hành vi mang tài sản của mình cho người khác bằng nhiều hình thức khác nhau, kể cả việc đóng góp phúc lợi, khen thưởng hoặc tài trợ một cách bất hợp lý hay phung phí tài sản.

e. Giao dịch ngoài mục đích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã

Mọi giao dịch với mục đích hoạt động kinh doanh đều mang đến lợi nhuận cho doanh nghiệp, và những hoạt động ngoài mục đích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thường được cho là những hoạt đông phi lợi nhuận. Do vậy, Luật Phá sàn năm 2014 đã đưa điều khoản này vào để dự liệu các trường hợp mà con nợ thực hiện những giao dịch mang tính xã hội như viện trợ nhân đạo… Tuy những giao dịch này có lợi cho xã hội nhưng vô hình chung lại đẩy những chủ nợ vào thế bất lợi. Do đó cũng cần phải vô hiệu những giao dịch này.

g. Các giao dịch khác với mục đích tẩu tán tài sản

Pháp luật thường khó có thể dự liệu đầy đủ và chi tiết cho mọi tình huống. Vì vậy quy định mang tính mở này là để phòng khi xuất hiện một dạng giao dịch chưa được liệt kê khi các tòa án xử vẫn có thể vận dụng trong quá trình xét xử.

2.2. Những giao dịch sau khi tiến hành thủ tục phá sản

Khoản 1 Điều 48 Luật Phá sản năm 2014 quy định như sau:   

Điều 48. Hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã bị cấm sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản

1. Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, cấm doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện các hoạt động sau:

a) Cất giấu, tẩu tán, tặng cho tài sản;

b) Thanh toán khoản nợ không có bảo đảm, trừ khoản nợ không có bảo đảm phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã quy định tại điểm c khoản 1 Điều 49 của Luật này;

c) Từ bỏ quyền đòi nợ;

d) Chuyển khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.”

Những hoạt động trên đều được Luật Phá sản dự liệu và nghiêm cấm. Bởi lẽ, cũng như những phân tích ở trên, các giao dịch này đi ngược với mục đích của quá trình giải quyết phá sản và làm hao hụt khối tài sản phá sản của doanh nghiệp, ảnh hưởng lớn tới lợi ích của các chủ nợ.

Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Luật Phá sản

Luật Hoàng Anh

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư