2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Căn cứ Điều 151 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) giải quyết vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện được quy định như sau:
“Điều 151. Giải quyết vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm thì quyết định việc khởi tố vụ án theo thẩm quyền hoặc chuyển cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết.”
Một vụ việc có dấu hiệu tội phạm sẽ căn cứ vào 4 yếu tố: tính trái pháp luật hình sự, tính nguy hiểm cho xã hội, tính phải chịu hình phạt, tính có lỗi. Trong đó dấu hiệu về tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS 2015 như sau:
“Điều 8. Khái niệm tội phạm
1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.”
Và dấu hiệu tội phạm sẽ là những chứng cứ ban đầu về hành vi phạm tội nói chung, có thể chưa xác định được người phạm tội cụ thể nào (ví dụ một người bị bắn chết, hiện trường của một vụ đột nhập nhà riêng trộm cắp tài sản), trên thực tế có rất nhiều trường hợp lúc đầu chỉ biết thông tin về sự kiện nhưng khi kiểm tra, xác minh thì sự kiện đó không đủ dấu hiệu tội phạm và việc xác định phải dựa trên những căn cứ được quy định tại Điều 143 BLTTHS 2015 théo đó:
“Điều 143. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ:
1. Tố giác của cá nhân;
2. Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
3. Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng;
4. Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước;
5. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;
6. Người phạm tội tự thú.”
Như vậy theo quy định tại khoản 5 Điều 143 BLTTHS 2015 thì trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, nếu trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét và giải quyết như sau:
- Nếu vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định khởi tố vụ án theo quy định;
- Nếu vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì cơ quan có thẩm quyền tố tụng chuyển vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền tố tụng có thẩm quyền để khởi tố vụ án hình sự theo quy định.
Ví dụ: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh A, nhận được đơn tố giác của công dân về một đối tượng nghi đang vận chuyển hàng giả. Qua xác minh, thấy có đủ cơ sở để kết luận đối tượng vận chuyển tiền giả thuộc trường hợp quy định tại Điều 207 BLHS 2015 nên Cơ quan Cảnh sát điều tra phải chuyển vụ việc cho Cơ quan An Ninh điều tra Công an tỉnh H thị lý, khởi tố vụ án hình sự theo quy định.
Cụ thể tại khoản 2 Điều 17 Luật tổ chức Cơ quan Điều tra hình sự 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan An ninh Điều tra Công an cấp tỉnh.
“Điều 17. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan An ninh Điều tra Công an cấp tỉnh
1. Tổ chức công tác trực ban hình sự, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; phân loại và trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc chuyển ngay đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.
2. Tiến hành Điều tra vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại Chương XIII, Chương XXVI và các tội phạm quy định tại các Điều 207, 208, 282, 283, 284, 299, 300, 303, 304, 305, 309, 337, 338, 347, 348, 349 và 350 của Bộ luật hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân; tiến hành Điều tra vụ án hình
sự về tội phạm khác liên quan đến an ninh quốc gia hoặc để bảo đảm khách quan theo sự phân công của Bộ trưởng Bộ Công an.”
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh