2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
Căn cứ Điều 309 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) tuân thủ pháp luật về hỏi bị cáo được quy định như sau:
“Điều 309. Hỏi bị cáo
1. Chủ tọa phiên tòa phải quyết định hỏi riêng từng bị cáo. Nếu lời khai của bị cáo này có thể ảnh hưởng đến lời khai của bị cáo khác thì chủ tọa phiên tòa phải cách ly họ. Bị cáo bị cách ly được thông báo lại nội dung lời khai của bị cáo trước và có quyền đặt câu hỏi đối với bị cáo đó.
2. Bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án. Hội đồng xét xử hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
Kiểm sát viên hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội và những tình tiết khác của vụ án.
Người bào chữa hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa và tình tiết khác của vụ án.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự hỏi bị cáo về những tình tiết liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự.
Những người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết liên quan đến họ.
3. Nếu bị cáo không trả lời các câu hỏi thì Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án.
Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo được đặt câu hỏi với bị cáo khác về các vấn đề có liên quan đến bị cáo.”
Điều luật quy định về việc hỏi bị cáo tại phiên tòa, theo đó chủ tọa phiên tòa quyết định hỏi riêng từng bị cáo. Tuy nhiên, để bảo đảm cho việc xét hỏi có hiệu quả thì trong quá trình hỏi bị cáo vẫn có thể hỏi những người tham gia tố tụng khác.
Đối với vụ án đồng phạm hoặc có nhiều bị cáo, thì chủ tọa phiên tòa phải cách ly họ nếu lời khai của bị cáo này có thể ảnh hưởng đến lời khai của bị cáo của bị cáo khác. Trong trường hợp này, khi vào phòng xử án, bị cáo bị cách ly được thông báo lại nội dung lời khai của bị cáo trước. Bị cáo bị cách ly có quyền đặt câu hỏi đối với bị cáo khai trước đó. Như vậy đồng thời với quy định tại khoản 2 Điều 304 BLTTHS, thì có 2 trường hợp cách ly bị cáo: cách ly bị cáo với người làm chứng; cách ly bị cáo này với bị cáo khác.
Trước khi hỏi bị cáo, Chủ tọa phiên tòa yêu cầu bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án. Sau đó, Hội đồng xét xử hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Đối với vụ án đồng phạm, thì chỉ cần yêu cầu bị cáo bị xét hỏi đầu tiên trình bày về những tình tiết của vụ án. Còn các bị cáo khác chỉ cần hỏi về bản cáo trạng và về lời trình bày của bị cáo đầu tiên. Nếu bị cáo cho rằng lời trình bày của bị cáo đầu tiên chưa đúng, chưa đầy đủ, thì Hội đồng xét xử yêu cầu bị cáo đó trình bày bổ sung hoặc trình bày rõ về những tình tiết của vụ án.
Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự là những người có quyền xét hỏi bị cáo, cụ thể là:
- Kiểm sát viên hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội và những tình tiết khác của vụ án;
Người bào chữa hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa và tình tiết khác của vụ án. Bao gồm các tình tiết liên quan đến việc chứng minh bị cáo: không phạm tội, phạm tội nhẹ hơn; những tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và những tình tiết giảm mức bồi thường thiệt hại;
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự hỏi bị cáo về những tình tiết liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự.
Những người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ toạ phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết liên quan đến họ. Nếu chấp nhận thì Chủ tọa phiên tòa hỏi thêm bị cáo về những tình tiết đó. Bị cáo có thể hỏi bị cáo khác về những vấn đề liên quan đến mình khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý.
Nếu bị cáo không trả lời các câu hỏi thì Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án; nhắc hoặc công bố lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 308 BLTTHS:
“Điều 308. Công bố lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố
2. Chỉ được công bố những lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Lời khai của người được xét hỏi tại phiên tòa mâu thuẫn với lời khai của họ trong giai đoạn điều tra, truy tố;
b) Người được xét hỏi không khai tại phiên tòa hoặc không nhớ những lời khai của mình trong giai đoạn điều tra, truy tố;
c) Người được xét hỏi đề nghị công bố lời khai của họ trong giai đoạn điều tra, truy tố;
d) Người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết.”
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh