2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
Căn cứ Điều 251 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) tuân thủ pháp luật về tạm ngừng phiên tòa được quy định như sau:
“Điều 251. Tạm ngừng phiên tòa
1. Việc xét xử có thể tạm ngừng khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Cần phải xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa và có thể thực hiện được trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa;
b) Do tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa nhưng họ có thể tham gia lại phiên tòa trong thời gian 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa;
c) Vắng mặt Thư ký Tòa án tại phiên tòa.
2. Việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa và thông báo cho những người tham gia tố tụng biết. Thời hạn tạm ngừng phiên tòa không quá 05 ngày kể từ ngày quyết định tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa, việc xét xử vụ án được tiếp tục. Trường hợp không thể tiếp tục xét xử vụ án thì phải hoãn phiên tòa.”
Tạm ngừng phiên tòa là một quy định mới của BLTTHS 2015. Theo quy định tại khoản 1 Điều 251 BLTTHS thì việc tạm ngừng phiên tòa được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
- Thứ nhất, cần phải xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa. Điều kiện tạm ngừng phiên tòa trong trường hợp này là việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật có thể thực hiện trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa.
Thứ hai, do tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa nhưng họ có thể tham gia lại phiên tòa trong thời gian 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa. Đây là trường hợp người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng đã tham gia phiên tòa nhưng vì lý do tình trạng sức khỏe, sự bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà không thể tiếp tục tham gia phiên tòa. Điều kiện tạm ngừng phiên tòa trong trường hợp này là những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng có thể tham gia lại phiên tòa trong thời gian 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa. Một số lý trường hợp như vì tình trạng sức khỏe hay sự kiện bất khả kháng có thể như: ốm, bị trở ngại về giao thông (như: đường xá bị ngập lụt, hư hỏng, có người thân trong gia đình phải cấp cứu, hoặc chết,...) Luật không quy định rõ những trường hợp nào có lý do chính đáng, do đó, Hội đồng xét xử có quyền nhận định đối với mỗi trường hợp cụ thể.
Sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa là thể hiện quyền và nghĩa vụ của họ vì họ là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự và có quyền bào chữa trước tòa. Vì vậy, Tòa án phải kiểm tra sự có mặt của bị cáo trước phiên tòa và nếu họ vắng mặt tòa phải kiểm tra xem bị cáo đã nhận được giấy triệu tập chưa, nếu bị cáo vắng mặt vì những lý do chính đáng như trên thì Tòa án phải tạm ngừng phiên tòa. Tuy nhiên, pháp luật cho phép xét xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp sau:
+ Bị cáo trốn tránh mà cơ quan Công an đã có báo cáo là việc truy nã không có kết quả.
+ Bị cáo đang ở nước ngoài mà không thể triệu tập đến phiên tòa.
+ Bị cáo vắng mặt nhưng sự vắng mặt của họ không trở ngại cho việc xét xử và bị cáo đã được triệu tập hợp lệ.
Thứ ba, vắng mặt Thư ký tại phiên tòa. Việc tạm ngừng phiên tòa trong trường hợp này được thực hiện khi Thư ký Tòa án bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục phiên tòa mà không có Thư ký Tòa án dự khuyết. Theo quy định tại khoản 2 Điều 34 BLTTHS, thì Thư ký Tòa án là người tiến hành tố tụng và là một trong những người có thẩm quyền tố tụng. Bởi lẽ, tại khoản 1 Điều 4 BLTTHS quy định “Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm người tiến hành tố tụng và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.” Do vậy, có thể cho rằng căn cứ tạm ngừng phiên tòa do “ vắng Thư ký Tòa án tại phiên tòa” thực chất là một trường hợp cụ thể của việc tạm ngừng phiên tòa “do tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa nhưng họ có thể tham gia lại phiên tòa trong thời gian 5 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa được quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.
Về thủ tục, thì việc tạm ngừng phiên tòa phải được Hội đồng xét xử quyết định tại phiên tòa (không phải thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và lập biên bản) nhưng phải ghi vào biên bản phiên tòa và thông báo cho những người tham gia tố tụng biết. Thời hạn tạm ngừng phiên tòa không quá 05 ngày kể từ ngày quyết định tạm ngừng phiên tòa. Do vậy, đồng thời với việc thông báo tạm ngừng phiên tòa, Hội đồng xét xử phải thông báo ngày giờ mở lại phiên tòa. Trường hợp tạm dừng phiên tòa do vắng Thư ký Tòa án tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải ban hành “Quyết định tạm ngừng phiên tòa và công bố tại phiên tòa. Quyết định tạm ngừng phiên tòa phải được lưu trong hồ sơ vụ án.
Hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa, việc xét xử vụ án được tiếp tục. Trường hợp không thể tiếp tục xét xử vụ án thì hoãn phiên tòa. Cho nên khi thấy, không thể tiếp tục xét xử vụ án, thì Hội đồng xét xử phải thảo luận, thông qua tại phòng nghị án việc hoãn phiên tòa và ra quyết định hoãn phiên tòa theo quy định tại Điều 297 BLTTHS. Quyết định hoãn phiên tòa được công bố tại phiên tòa và được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người vắng mặt tại phiên tòa như quy định tại khoản 4 Điều 297 BLTTHS.
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh