2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
Căn cứ Điều 243 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) quyết định truy tố bị can được quy định như sau:
“Điều 243. Quyết định truy tố bị can
Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng.
Bản cáo trạng ghi rõ diễn biến hành vi phạm tội; những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị can, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân của bị can; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng; nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội và tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều, khoản, điểm của Bộ luật hình sự được áp dụng.
Bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra cáo trạng; họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra bản cáo trạng.”
Bản cáo trạng là hình thức pháp lý của quyết định truy tố bị can trước Tòa án. Bản cáo trạng là quyết định tố tụng đặc trưng thể hiện chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát, cũng chỉ có duy nhất Viện kiểm sát là CQTHTT có thẩm quyền ban hành bản cáo trạng.
Bản cáo trạng là cơ sở để xác định giới hạn xét xử của Tòa án, vì vậy, Bản cáo trạng phải ghi rõ diễn biến hành vi phạm tội; những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị can, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân của bị can; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng; nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội và tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
So với BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 đã quy định bản cáo trạng bắt buộc phải nêu được “diễn biến hành vi phạm tội”, chứng cứ xác định “hành vi phạm tội” “tính chất, mức độ gây thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, đặc điểm nhân thân bị can và nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội”. Đây là sự bổ sung hợp lý để đủ các căn cứ luận cứ cho quyết định truy tố và bảo vệ quan điểm truy tố tại phiên tòa, cũng là cơ sở cần thiết để người bào chữa và người bị buộc tội chuẩn bị nội dung tranh luận bào chữa của họ. Mặt khác, việc yêu cầu cáo trạng phải có các thông tin về việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng cũng nhằm bảo đảm nội dung bản cáo trạng được đầy đủ, hoàn thiện, phản ánh được tiến trình và kết quả điều tra, truy tố đối với vụ án đến thời điểm ban hành cáo trạng.
Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều, khoản, điểm của Bộ luật hình sự được áp dụng, những thông tin này có ý nghĩa quan trọng để xác định thẩm quyền và đặc biệt là giới hạn để xét xử của Tòa án. Tòa án xét xử những bị cáo và đưa ra những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, có thể xét xử theo điều khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một Điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố. Giới hạn này dựa trên những thông tin về tội danh, điểm, khoản, điều của BLHS trong phần kết luận của bản cáo trạng.
Bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra cáo trạng; họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra bản cáo trạng là những thông tin bắt buộc của một văn bản tố tụng.
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh