2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
Căn cứ Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) tuân thủ pháp luật về sửa bản án sơ thẩm được quy định như sau:
“Điều 357. Sửa bản án sơ thẩm
1. Khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:
a) Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp;
b) Áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn;
c) Giảm hình phạt cho bị cáo;
d) Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng;
đ) Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn;
e) Giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo.
2. Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể:
a) Tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; áp dụng hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp tư pháp;
b) Tăng mức bồi thường thiệt hại;
c) Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn;
d) Không cho bị cáo hưởng án treo.
Nếu có căn cứ thì Hội đồng xét xử vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại.
3. Trường hợp có căn cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều này cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.”
Sửa bản án sơ thẩm là một trong những quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm, tuy nhiên việc sửa bản án sơ thẩm phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Điều luật quy định những nguyên tắc sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm.
Điều luật quy định: Khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:
Thứ nhất, sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo:
HĐXX có quyền miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp; áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn; giảm hình phạt cho bị cáo; giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng; chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo.
Điều kiện sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo:
+ Khi sửa bản án theo hướng có lợi cho bị cáo, tòa án cấp phúc thẩm không bị ràng buộc bởi phạm vi và hướng kháng cáo, kháng nghị.
+ Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo ngay cả khi chỉ có kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng nặng. Thậm chí đối với những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị nếu có căn cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo. Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ xem xét phần bản án sơ thẩm về bồi thường thiệt hại nếu có kháng cáo, kháng nghị về bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự yêu cầu tăng mức bồi thường thiệt hại nhưng nếu có căn cứ, hội đồng xét xử phúc thẩm vẫn có quyền giảm mức bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo:
HĐXX có thể: Tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; áp dụng hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp tư pháp; Tăng mức bồi thường thiệt hại; Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn; Không cho bị cáo hưởng án treo.
Điều kiện sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo:
+ Việc sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo không được vượt quá nội dung yêu cầu kháng cáo, kháng nghị (nếu có kháng cáo, kháng nghị chỉ yêu cầu tăng mức hình phạt thì chỉ được tăng hình phạt trong giới hạn của khung hình phạt tòa sơ thẩm đã tuyên); không được ra bản án không có lợi cho bị cáo vắng mặt tại phiên tòa trừ trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng.
+ Phải có kháng cáo của bị hại, kháng nghị của Viện kiểm sát yêu cầu tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc có kháng cáo của đương sự yêu cầu tăng mức bồi thường thiệt hại.
Nếu chỉ có kháng cáo, kháng nghị theo hướng có lợi cho bị cáo thì tòa án cấp phúc thẩm chỉ có thể y án sơ thẩm hoặc sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho họ, không được sửa bản án theo hướng tăng nặng hoặc hủy bán án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo.
Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu nhưng nếu có căn cứ thì Hội đồng xét xử vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại.
Khoản 3 Điều luật là một quy định bổ sung cho trường hợp có căn cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều này cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị. Trường hợp có căn cứ đó là khi xác định bản án sơ thẩm đã tuyên bố không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì mặc dù bị cáo không có kháng cáo hoặc bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm vẫn có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo. Quy định này nhằm bảo đảm sự công bằng trong xét xử, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước nhằm bảo đảm quyền lợi cho các bị cáo nói chung và những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh