Thủ tục giải quyết trong trường hợp người phạm tội tự thú, đầu thú được quy định như thế nào?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:09 (GMT+7)

Bài viết trình bày về thủ tục giải quyết trong trường hợp người phạm tội tự thú, đầu thú theo quy định của pháp luật hiện hành.

Người phạm tội tự thú, đầu thú được quy định lần đầu trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.Trong đó, đáng lưu ý là những nội dung liên quan tới tinh thần nâng cao hơn về bảo vệ quyền con người, quyền công dân hướng tới những quy định nhân đạo hơn với người phạm tội.

1. Cơ sở pháp lý

Căn cứ Điều 152 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) người phạm tội tự thú, đầu thú được quy định như sau:

“Điều 152. Người phạm tội tự thú, đầu thú

1. Khi người phạm tội đến tự thú, đầu thú, cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản ghi rõ họ tên, tuổi, nghề nghiệp, chỗ ở và lời khai của người tự thú, đầu thú. Cơ quan, tổ chức tiếp nhận người phạm tội tự thú, đầu thú có trách nhiệm thông báo ngay cho Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát.

2. Trường hợp xác định tội phạm do người tự thú, đầu thú thực hiện không thuộc thẩm quyền điều tra của mình thì Cơ quan điều tra tiếp nhận người tự thú, đầu thú phải thông báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiếp nhận, giải quyết.

3. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi tiếp nhận người phạm tội tự thú, đầu thú, Cơ quan điều tra có thẩm quyền phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp.”

2. Quy định về thủ tục giải quyết trong trường hợp người phạm tội tự thú, đầu thú.

Theo điểm h, Khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015: “Tự thú” là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện. Quy định này thể hiện chính sách khoan hồng và truyền thống nhân đạo của Nhà nước ta đối với những lầm lỗi mà chịu ăn năn hối cải. Hành vi tự thú không chỉ giúp cho cơ quan bảo vệ pháp luật sớm phát hiện và ngăn chặn những hành vi tội phạm mà còn tác động tích cực đến những đối tượng khác đã hoặc đang có hành vi phạm tội buộc họ phải từ kiềm chế hành vi và ý đồ của mình. Tự thú còn làm giảm bớt chi phí của Nhà nước cũng như thời gian tố tụng. Chính vì vậy, BLHS 2015 quy định tự thú là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51. Trong tố tụng hình sự, tự thú là một trong những căn cứ để khởi tố vụ án hình sự, do đó việc tiếp nhận người phạm tội tự thú cũng cần phải có những quy định cụ thể.

Theo điểm i Khoản 4 BLTTHS 2015, Đầu thú là việc người phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình. Cũng tương tự như tự thú, đầu thú cũng có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm. Mặc dù việc người phạm tội đầu thú xảy ra sau khi hành vi phạm tội cũng như người phạm tội đã bị phát hiện song nó cũng được coi là một trong những căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Tương tự như tự thú, người phạm tội đầu thú cũng được coi là một trong những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS 2015.

Người phạm tội có thể đến Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát hoặc bất kỳ cơ quan nào để tự thú, đầu thú. Ví dụ: trụ sở UBND xã, trị sở Mặt trận Tổ quốc để tự thú, đầu thú. Khi người phạm tội đến tự thú, đầu thú, cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản ghi rõ họ tên, tuổi, nghề nghiệp, chỗ ở và lời khai của người tự thú, đầu thú. Cơ quan, tổ chức tiếp nhận người phạm tội tự thú, đầu thú có trách nhiệm thông báo ngay cho Cơ quan Điều tra hoặc Viện kiểm sát.

Vì lời tự thú, đầu thú của người phạm tội có y nghĩa rất quan trọng trong hoạt động tố tụng sau này nên biên bản tiếp nhận phải được ghi rõ và đầy đủ về nhân thân cũng như lời khai của người tự thú, đầu thú về hành vi phạm tội của mình.

Điều luật quy định trách nhiệm thông báo của cơ quan, tổ chức tiếp nhận đối với Cơ quan Điều tra hoặc Viện kiểm sát giúp cho các cơ quan, tổ chức sau khi tiếp nhận người tự thú, đầu thú biết được các hoạt động phù hợp cần thực hiện cũng như tăng cường trách nhiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm của cơ quan, tổ chức trong xã hội.

Trường hợp xác định tội phạm do người tự thú, đầu thú thực hiện không thuộc thẩm quyền điều tra của mình thì Cơ quan điều tra tiếp nhận người tự thú, đầu thú phải thông báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiếp nhận, giải quyết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi tiếp nhận người phạm tội tự thú, đầu thú, Cơ quan điều tra có thẩm quyền phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát hoạt động theo quy định của pháp luật.

Tổ chức tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được quy định tại Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC:

“Điều 7. Tổ chức tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

1. Cơ quan điều tra phải tổ chức trực ban hình sự 24/24 giờ, Viện kiểm sát các cấp phải tổ chức trực nghiệp vụ 24/24 giờ để tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (kể cả tin báo về tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng); phân loại và chuyển ngay cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Địa điểm tiếp nhận phải đặt ở nơi thuận tiện, có biển ghi tên cơ quan và thông báo rộng rãi để mọi người biết.

Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an phải bố trí cán bộ trực để tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm.

Các cơ quan, tổ chức khác khi có tố giác, tin báo về tội phạm thì phải phân công người tiếp nhận.

2. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố qua dịch vụ bưu chính, điện thoại hoặc qua phương tiện thông tin khác thì ghi vào sổ tiếp nhận. Nếu cá nhân trực tiếp đến tố giác về tội phạm hoặc đại diện cơ quan, tổ chức trực tiếp đến báo

tin về tội phạm thì lập biên bản tiếp nhận và ghi vào sổ tiếp nhận. Có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc tiếp nhận.

Trường hợp người phạm tội đến tự thú, đầu thú thì thực hiện theo trình tự, thủ tục theo quy định tại Điều 152 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.”

Quy định việc người phạm tội đầu thú cũng là một trong những căn cứ để khởi tố vụ án hình sự; thông báo cho Cơ quan Điều tra có thẩm quyền tiếp nhận người phạm tội tự thú, đầu thú; đặc biệt Điều luật còn quy định cụ thể thời hạn và trách nhiệm thông báo của Cơ quan Điều tra có thẩm quyền cho Viện kiểm sát cùng cấp nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án được nhanh chóng và tuân thủ theo quy định của pháp luật.

Như vậy, quy định trường hợp tự thú trong pháp luật là thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước ta, thể hiện truyền thống nhân đạo của dân tộc ta đối với những người lầm lỗi mà chịu ăn năn hối cải. Thành tâm tự thú là một hành vi tích cực và là biểu hiện của sự ăn năn muốn hối cải của người đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi phạm tội; Bộ luật hình sự quy định việc người phạm tội tự thú là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. Quy định về tự thú còn là quy định mang tính phòng ngừa tích cực. Hành vi tự thú không chỉ giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật sớm tìm ra tội phạm và ngăn chặn được những hành vi tiếp tục thực hiện tội phạm mà còn tác động tích cực đến những đối tượng khác đã hoặc đang có hành vi phạm tội, làm cho các đối tượng này phải hoang mang, dao động mà tự kiềm chế các hành vi và ý đồ thực hiện tội phạm của mình; tự thú còn có ý nghĩa tích cực ở chỗ, làm giảm bớt những chi phí cần thiết cho việc điều tra, truy bắt đối tượng phạm tội; rút ngắn thời hạn thực hiện các hành vi tố tụng. Vì những ý nghĩa đó, pháp luật tố tụng hình sự của nước ta, luôn khuyến khích bị can, bị cáo tự thú. Cũng chính vì vậy mà luật cũng quy định những thủ tục tố tụng và các điều kiện pháp lý khác có lợi cho người tự thú.

Xem thêm: Tổng hợp các bài viết của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Luật Hoàng Anh

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư  vn  min  phí  ngay Chat  vi  lut  sư