2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Căn cứ Điều 411 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) tuân thủ pháp luật về thủ tục và thẩm quyền xem xét lại quyết định của HĐTPTANDTC được quy định như sau:
“Điều 411. Thủ tục và thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải tham dự phiên họp xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và phát biểu quan điểm về việc có hay không có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có hay không có tình tiết mới quan trọng làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và quan điểm về việc giải quyết vụ án.
2. Sau khi nghe Chánh án Tòa án nhân dân tối cao báo cáo, nghe ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham dự (nếu có), Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quyết định:
a) Không chấp nhận yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và giữ nguyên quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
b) Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật và quyết định về nội dung vụ án;
c) Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật;
d) Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại.
3. Quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải được ít nhất ba phần tư tổng số thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao biểu quyết tán thành.”
Viện trưởng VKSNDTC là thành phần bắt buộc trong phiên họp xem xét lại quyết định của HĐTPTANDTC. VKSNDTC phải chuẩn bị ý kiến sau khi nhận được bản sao văn bản yêu cầu của Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc quyết định của HĐTPTANDTC về việc nhất trí xem xét lại quyết định của mình kèm theo hồ sơ vụ án do TANDTC gửi đến. Trong phiên họp, Viện trưởng VKSNDTC phải đưa ra quan điểm của mình về việc có hay không có không có tình tiết mới quan trọng làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và quan điểm về việc giải quyết vụ án.
Sau khi nghe Chánh án Tòa án nhân dân tối cao báo cáo, nghe ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham dự (nếu có), Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quyết định sau đây:
a) Không chấp nhận yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và giữ nguyên quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Đây là quyết định trong trường hợp các thành viên HĐTPTANDTC cho rằng “không có vi phạm pháp luật nghiêm trọng” hoặc “không có tình tiết mới quan trọng làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của HĐTPTANDTC”.
b) Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật và quyết định về nội dung vụ án. Đây là quyết định trong các trường hợp các thành viên của HĐTPTANDTC cho rằng “có vi phạm pháp luật nghiêm trọng” hoặc “có tình tiết mới quan trọng làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của HĐTPTANDTC” nhưng HĐTPTANDTC có thể sửa ngay được.
c) Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Đây là quyết định trong trường hợp các thành viên của HĐTPTANDTC cho rằng “có vi phạm pháp luật nghiêm trọng” hoặc “có tình tiết mới quan trọng làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của HĐTPTANDTC” nhưng HĐTPTANDTC có thể xác định/ sửa chữa ngay trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
d) Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại. Đây là quyết định trong trường hợp các thành viên của HĐTPTANDTC cho rằng “có tình tiết mới quan trọng làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của HĐTPTANDTC” nhưng cần phải điều tra lại hoặc xét xử lại.
Quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải được ít nhất ba phần tư tổng số thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao biểu quyết tán thành. Số lượng thành viên HĐTPTANDTC không dưới 13 người và không quá 17 người: gồm Chánh án, các Phó chánh án TANDTC là Thẩm phán TANDTC và các Thẩm phán TANDTC. Điều luật quy định rõ: Quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải được ít nhất ba phần tư tổng số thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao biểu quyết tán thành, do vậy nếu phiên họp không đầy đủ các thành viên của HĐTP và chỉ ba phần tư số thành viên của HĐTPTANDTC có mặt trong phiên họp đó biểu quyết tán thành thì quyết định đó không được coi là hợp lệ.
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh