Tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự là gì?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:56:41 (GMT+7)

Tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự quy định tại Điều 335 BLHS.

MỤC LỤC

MỤC LỤC

1. Căn cứ pháp lý

Điều 335 Chương XXII Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự như sau:

Điều 335. Tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự

1. Người nào cố ý cản trở việc đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ, gọi tập trung huấn luyện, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

2. Phạm tội trong trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc trong thời chiến, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

2. Dấu hiệu pháp lý của tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự

Cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự là hành vi ngăn cản, gây khó khăn cho việc đăng ký nghĩa vụ quân sự, việc gọi nhập ngũ hoặc việc gọi tập trung huấn luyện.

2.1. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm này hoàn toàn giống với khách thể của tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự, vì nó chính là chính sách (chế độ) nghĩa vụ quân sự của Nhà nước; xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan hành chính Nhà nước, trong đó có các cơ quan quân sự địa phương, chính sách nghĩa vụ quân sự bị xâm phạm cũng được giới hạn bởi chính sách về đăng ký nghĩa vụ quân sự; chính sách về gọi nhập ngũ, về gọi tập trung huấn luyện.

2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi cản trở việc đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ, gọi tập trung huấn luyện.

Cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự là tìm cách ngăn lại làm cho việc thực hiện nghĩa vụ quân sự khó tiến hành hoặc tiến hành không được. Tuy nhiên, hành vi cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự cũng như hành vi làm trái việc thực hiện nghĩa vụ quân sự, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà hành vi cản trở được thực hiện như sau:

Cản trở quy định về gọi nhập ngũ là hành vi tìm cách ngăn lại làm cho việc gọi nhập ngũ khó tiến hành hoặc tiến hành không được. Ví dụ: Vì không muốn cho con nhập ngũ, nên T đã đưa con trai là A đã có lệnh gọi ngập ngũ vào Đà Lạt chơi và ở tại Đà Lạt đến sau thời gian gọi nhập ngũ T mới đưa con về. Trường hợp A không biết mình được gọi nhập ngũ thì A không bị truy cứu trách nhiệm về tội trốn tránh nghĩa vụ và T sẽ bị truy cứu trách nhiệm về tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự.

Cản trở quy định về gọi tập trung huấn luyện là hành vi tìm cách ngăn lại làm cho việc gọi tập trung huấn luyện khó tiến hành hoặc tiến hành không được. Ví dụ, hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị hạng một phải tham gia huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu trong đơn vị dự bị động viên với tổng thời gian không quá 12 tháng. Tuy nhiên, A là người phụ trách đơn vị dự bị động viên đã bỏ việc huấn luyện để trực tiếp thăng cấp cho hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị.

Hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm có hành vi khách quan xảy ra.

2.3. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này không phải chủ thể đặc biệt, bất kì ai cũng có thể trở thành chủ thể của tội này. Họ có thể là người Việt Nam, người nước ngoài hoặc người không quốc tịch.

Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXII Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

Cố ý cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; hoặc thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

3. Hình phạt đối với người phạm tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự

Điều 335 Bộ luật Hình sự quy định 02 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

- Người nào cố ý cản trở việc đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ, gọi tập trung huấn luyện, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

- Phạm tội trong trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc trong thời chiến, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

4. Vụ án thực tế xét xử về tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự

Bản án số 21/2020/HSST ngày 08/05/2020 “V/v xét xử bị cáo Nguyễn Quốc T và Đặng Mạnh C, phạm tội Cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự” của Tòa án nhân dân huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.[1]

Nguyễn Văn Á là công dân được Hội đồng nghĩa vụ quân sự huyện V ra Lệnh gọi khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự năm 2020 lần thứ 1, bản thân Á đã chấp hành và tham gia khám sức khỏe ngày 19/11/2019, kết quả Á đủ điều kiện sức khỏe để thực hiện các bước khám tuyển tiếp theo. Sau khi nhận được Lệnh  gọi  khám  sức  khỏe  nghĩa  vụ  quân  sự  lần  thứ  2  vào  ngày  27/12/2019,  do không muốn đi nghĩa vụ quân sự, nên bà T1 đã động viên Á đi nghĩa vụ quân sự, nhưng Á không đồng ý nên bà T1 đã tìm gặp ông Vũ Anh T2, sinh năm 1959 (trú cùng thôn) nói với ông T2: “Thằng Á nhà cháu nó phải đi bộ đội, bác xem có ai giúp được cho nó không phải đi nghĩa vụ không?”; ông T2 trả lời: “Để hỏi xem thằng C làm trong viện xem nó có giúp được không”. Sau đó ông T2 đã gặp Đặng Mạnh C để nhờ C tìm người giúp để Á không phải đi nghĩa vụ quân sự nữa. C nhận lời và gọi điện cho T nhờ giúp đỡ.

Bản thân T là bác sĩ, trước đây từng tham gia Hội đồng khám tuyển nghĩa vụ quân sự huyện V nên biết rõ quy trình khám sức khỏe,tuyển chọn công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự, biết rõ Á đã tham gia khám tuyển nghĩa vụ quân sự lần 1 và chuẩn bị tham gia khám tuyển lần 2 là khám sàng lọc HIV và ma túy, nên T nảy sinh ý định cho Á sử dụng thuốc Efferalgan Codein trước khi khám sức khỏe, khi Hội đồng khám tuyển nghĩa vụ quân sự xét nghiệm nước tiểu của Á bằng cách Test que thử sẽ cho kết quả dương tính với chất ma túy, nhằm làm cho Á không đủ điều kiện sức khỏe, không trúng tuyển nghĩa vụ quân sự.

C đồng ý với T về cách làm này và đưa ra điều kiện với gia đình Á là nếu ở nhà 01 năm thì chi phí xin là 7.000.000 đồng, không phải đi vĩnh viễn thì chi phí là 11.000.000 đồng, Áđồng ý và nói muốn xin không phải đi vĩnh viễn.

Sau khi đã đưa tiền, T đưa cho Á 04 viên thuốc Efferalgan Codeine và hướng dẫn Á cách sử dụng: “Trước khi đi ngủ uống 02 viên, sáng mai trước khi đi khám sức khỏe thì uống  02 viên”,  Á  cầm  thuốc  T  đưa  và  đi  về nhà.  Số tiền Á đưa, C  đưa  cho  T 10.000.000 đồng, còn giữ lại 1.000.000 đồng để sử dụng cá nhân.

Thực hiện theo hướng dẫn của T, Á lấy 02 viên thuốc Efferalgan Codeine mà T vừa đưa ra uống. Đến sáng ngày 27/12/2019, trước khi đến trụ sở UBND xã V khám, Á uống tiếp 02 viên. Sau khi khám sức khỏe, kết quả xét nghiệm nước tiểu của Nguyễn Văn Á là dương tính với chất ma túy.

Hội đồng nghĩa vụ quân sự huyện V tiếp tục có Lệnh gọi khám sức khỏe đối với Nguyễn Văn Á vào ngày 11/01/2020, Á đã gọi điện báo cho T biết. Sáng ngày 11/01/2020, T gọi điện thoại cho C bảo C đến phòng làm việc của Ttại Trung tâm y tế huyện V lấy 04 viên thuốc Efferalgan Codeine để đưa cho Á sử dụng khi đi khám sức khỏe. C đến lấy thuốc tại phòng của T, sau đó gọi điện thoại hẹn Á đến nhà. Khoảng 11 giờ ngày 11/01/2020, Á đến gặp C lấy thuốc đem về nhà và uống luôn 02 viên, đến chiều ngày 11/01/2020 trước khi đi khám tuyển nghĩa vụ quân sự, Á uống tiếp 02 viên. Kết quả xét nghiệm nước tiểu của Á ngày 11/01/2020 là dương tính với chất ma túy.

Biết sự việc đã bị phát hiện, trước khi đến Cơ quan Công an, T đã đưa cho C số tiền 10.000.000 đồng để trả lại cho Á. Quá trình làm việc, C đã giao nộp lại toàn bộ số tiền 11.000.000 đồng cho Cơ quan CSĐT Công an huyện V.

Hành vi của bị cáoNguyễn Quốc T và Đặng Mạnh C đã nêu trên là phạm tội “Cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự” được quy định tại khoản 1 Điều 335 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến chế độ nghĩa vụ quân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà còn tác động rất xấu đến trật tự trị an và an toàn xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân.

Như vậy, Tòa án nhân dân huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình quyết định tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quốc T và Đặng Mạnh C, phạm tội “Cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T 12 (Mười hai) tháng Cải tạo không giam giữ; thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện V, tỉnh N nhận được bản sao bản án và quyết định thi hành án. Khấu trừ 10% thu nhập trong 12 tháng, mỗi tháng là 1.069.730 đồng/tháng để sung ngân sách nhà nước.

Xử phạt bị cáo Đặng Mạnh C 10 (Mười) tháng Cải tạo không giam giữ; thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện V, tỉnh N nhận được bản sao bản án và quyết định thi hành án. Khấu trừ 10% thu nhập trong 10 tháng, mỗi tháng là 422.570 đồng/tháng để sung ngân sách nhà nước.

Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Bộ luật Hình sự

Luật Hoàng Anh

 


[1] https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta506520t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 21/09/2021.

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư