2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Điều 342 Chương XXII Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức như sau:
“Điều 342. Tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức
1. Người nào chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy trái phép con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức không thuộc tài liệu bí mật nhà nước hoặc bí mật công tác, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Thu lợi bất chính 10.000.000 đồng trở lên;
c) Để thực hiện hành vi trái pháp luật;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Khách thể của tội phạm là hoạt động bình thường của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước về sự an toàn, nguyên vẹn của con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội.
Đối tượng tác động là con dấu, tài liệu, giấy tờ của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội bị chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ. Tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội bị chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ phải là các tài liệu có nội dung mà người phạm tội quan tâm. Ví dụ, tiêu hủy chứng từ nghiệm thu sản phẩm để trốn tránh trách nhiệm.
Hành vi khách quan của tội phạm bao gồm 03 hành vi: chiếm đoạt, mua bán và tiêu hủy.
Chiếm đoạt con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội là hành vi dùng các thủ đoạn lén lút, gian dối, uy hiếp thể chất hoặc tinh thần đối với người quản lý con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác để lấy các tài liệu, giấy tờ đó hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp quản lý con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác để lấy con dấu, tài liệu, giấy đó.
Mua bán con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội là hành vi dùng tiền hoặc tài sản để trao đổi với người có trách nhiệm quản lý con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội để có con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội để cất giữ, để bán lại cho người khác hoặc bán con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội mà mình quản lý, cất giữ cho người khác để lấy tiền hoặc tài sản.
Tiêu huỷ con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội là làm cho con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội không còn giá trị sử dụng được nữa. Hành vi tiêu huỷ được thể hiện bằng nhiều cách như: đốt cháy, xét nát, nghiền nát, dùng các hoá chất để huỷ hoại. v.v…
Tuy nhiên không phải bất kì hành vi chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức nào cũng cấu thành tội phạm. Điều 342 Bộ luật Hình sự loại trừ trường hợp chiếm đoạt, mua bán tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước hoặc bí mật công tác. Bởi với những hành đó, Bộ luật hình sự đã quy định tội phạm riêng tại Điều 337 và Điều 361.
Hậu quả của tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc, tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm có hành vi khách quan xảy ra.
Chủ thể của tội phạm này không phải chủ thể đặc biệt. Bất kì ai cũng có thể trở thành chủ thể của tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Họ có thể là người Việt Nam, người nước ngoài hoặc người không quốc tịch.
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXII Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức là người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Người chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức là do cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Tức là người phạm tội biết hành vi chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng nhưng người phạm tội nhưng vẫn thực hiện, mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả xảy ra hoặc không cần biết hậu quả của hành vi đó như thế nào.
Động cơ phạm tội cũng không phải là dấu hiệu bắt buộc nhưng việc xác định động cơ của người phạm tội là rất quan trọng, nếu hành vi chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức nhằm chống chính quyền nhân dân hoặc chống phá Nhà nước thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gián điệp.
Điều 342 Bộ luật Hình sự quy định 03 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:
- Người nào chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy trái phép con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức không thuộc tài liệu bí mật nhà nước hoặc bí mật công tác, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Thu lợi bất chính 10.000.000 đồng trở lên;
c) Để thực hiện hành vi trái pháp luật;
d) Tái phạm nguy hiểm.
- Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Bản án số 28/2021/HS-ST ngày 16-6-2021 “V/v xét xử Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội chiếm đoạt, tiêu hủy tài liệu của cơ quan, tổ chức" của Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa[1].
Ngày 17/11/2020, Nguyễn Văn T và Đinh Thị T được triệu tập đến Tòa án nhân dân thị xã B để làm việc về một số nội dung có liên quan trong vụ án. Khoảng 15h00”, T và chị T cùng làm việc với Thẩm phán Lại Thị Diệu T và Thư kýLê Thị Thu H tại phòng làm việc trên tầng 02 (phòng thứ hai từ cầu thang đi vào).
Quá trình làm việc, anh T không muốn ly hôn nhưng chị T không đồng ý và cương quyết đòi ly hôn với anh T. Do không giữ được bình tĩnh nên anh T đứng dậy đi ra phía ngoài cửa. Lúc này, anh T nhìn thấy bộ hồ sơ ly hôn của mình đang để trên bàn làm việc trước mặt Thư ký Lê Thị Thu H. Do nghĩ rằng nếu xé bộ hồ sơ này đi thì việc ly hôn giữa mình và vợ sẽ không giải quyết được nữa nên anh T bất ngờ tiến lại phía bà H rồi dùng tay giật bộ hồ sơ. Sau đó, anh T mang theo hồ sơ chạy ra ngoài khu vực hành lang, vừa đi vừa xem và xé, ném các trang tài liệu tại khu vực cầu thang, sân và trước cổng trụ sở Tòa án nhân dân thị xã B. Anh T giữ lại giấy Chứng nhận đăng ký kết hôn của mình và vợ nhưng sau đó tiếp tục xé, ném trên đường đi về nhà (dọc đường Trần Phú, đoạn từ Tòa án nhân dân thị xã Bhướng đingã tư Ngọc Trạo).
Quá trình điều tra, thu thập xác định toàn bộ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 133/2020/TLST-HNGĐ của Tòa án nhân dân thị xã B bị Nguyễn Văn T chiếm đoạt và xé nát, bao gồm:
- 01 (một) Bìa hồ sơ dân sự sơ thẩm số 133/2020/TLST-HNGĐ về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn giữa Đinh Thị T và Nguyễn Văn T;
- 01 (một) Quyết định nâng lương thường xuyên cho cán bộ, công chức xã năm 2017 (bản sao công chứng);
- 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của Nguyễn Văn T và Đinh Thị T(bản chính);
- 02 (hai) Giấy khai sinh của cháu Nguyễn Trường M và cháu Nguyễn Trường Ch (bản sao công chứng);
- 01 (một) Giấy chứng minh nhân dân của chị Đinh Thị T (bản sao công chứng);
- 01 (một) Giấy căn cước công dân của Nguyễn Văn T (bản sao công chứng);
- 01 (một) Sổ hộ khẩu đứng tên chủ hộ Đinh Văn C (bản sao công chứng 02 tờ, 04 mặt);
- 01 (một) Sổ hộ khẩu đứng tên chủ hộ Nguyễn Thanh T (bản sao công chứng 05 tờ, 10 mặt);
- 01(một) Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí (bản gốc có dấu đỏ của Tòa án nhân dân thị xã Bvà chữ ký của thẩm phánLại Thị Diệu T);
- 01(một) Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0007108 ngày 10/11/2020 (Bản chính có dấu đỏ của Chi cục thi hành án dân sự thị xã B);
- 01 (một) Quyết định phân công thư ký thụ lý, giải quyết vụ, việcdân sự (bản gốc, có chữ ký của Chánh án Tòa án nhân dân thị xã B);
- 01 (một) Quyết định phân công thẩm phán thụ lý, giải quyết vụ án dân sự (bản gốc, có chữ ký của Chánh án Tòa án nhân dân thị xã B);
- 01 (một) Đơn xin ly hôn đơn phương của chị Đinh Thị T (bản gốc).
- 01 (một) Biên bản ghi lời khai Nguyễn Văn T (bản gốc 02 tờ, 04 mặt);
- 01 (một) Giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện (bản gốc, có chữ ký của Chánh Văn phòng Tòa án nhân dân thị xã B);
- 01 (một) Biên bản giao nhận tài liệu giữa ChánhVăn phòng Tòa án nhân dân thị xã B và chị Đinh Thị T (bản gốc);
- 01 (một) Biên bản giao nhận tài liệu, chứng cứ giữa chị Đinh Thị T và Thẩm phán Lại Thị Diệu T (bản gốc);
- 01 (một) Biên bản giao nhận tài liệu, chứng cứ giữa chị Đinh Thị T và Chánh Văn phòng Tòa án nhân dân thị xã B (bản gốc).
Tổng số 18 tài liệu và 01 bìa hồ sơ vụ án nêu trên đều do Tòa án nhân dân thị xã Btiếp nhận, thu thập và ban hành theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, không thuộc loại tài liệu bí mật nhà nước hoặc bí mật công tác. Các trang tài liệu sau khi bị Nguyễn Văn T chiếm đoạt, xé và ném đi đã được thu thập lại tuy nhiên không thể khôi phục và không còn giá trị sử dụng.
Xét về tính chất vụ án là ít nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự quản lý hành chính của Nhà nước và xâm phạm đến sự hoạt động bình thường, uy tín quản lý hành chính Nhà nước, tổ chức là khách thể mà luật hình sự Việt Nam bảo vệ. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Bị cáo lợi dụng sự sơ hở của Thẩm Phán đã chiếm đoạt toàn bộ hồ sơ vụ án hôn nhân gia đình mà bị cáo là bị đơn trong vụ án chỉ vì bức xúc, nỏng nảy của bị cáo mà thực hiện hành vi phạm tội.
Như vật, Tòa án nhân dân Thị xã Bỉm Sơn, Thanh Hóa quyết định tuyên bố Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội " Chiếm đoạt, tiêu hủy tài liệu của cơ quan, tổ chức", xử phạt 8 ( Tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 16 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (16/6/2021).
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Bộ luật Hình sự
Luật Hoàng Anh
[1] https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta733050t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 24/09/2021.
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh