Tội chống mệnh lệnh là gì?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:14 (GMT+7)

Tội chống mệnh lệnh quy định tại Điều 394 BLHS

1. Căn cứ pháp lý

Điều 394 Chương XXV Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định tội chống mệnh lệnh như sau:

Điều 394. Tội chống mệnh lệnh

1. Người nào từ chối chấp hành hoặc cố ý không thực hiện mệnh lệnh của người có thẩm quyền, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;

b) Lôi kéo người khác phạm tội;

c) Dùng vũ lực;

d) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Trong chiến đấu;

b) Trong khu vực có chiến sự;

c) Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn;

d) Trong tình trạng khẩn cấp;

đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

2. Dấu hiệu pháp lý của tội chống mệnh lệnh

2.1. Khách thể của tội phạm

Tội chống mệnh lệnh là hành vi của cấp dưới trong quân đội, từ chối chấp hành hoặc cố ý không thực hiện mệnh lệnh của người có thẩm quyền.

Tội phạm này xâm phạm đến quan hệ chỉ huy, phục tùng trong quân đội.

Điều 26 Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định rõ trách nhiệm của sĩ quan như sau:

“Điều 26. Nghĩa vụ của sĩ quan

Sĩ quan có nghĩa vụ sau đây:

...

3. Tuyệt đối phục tùng tổ chức, phục tùng chỉ huy; nghiêm chỉnh chấp hành điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy định của quân đội; giữ bí mật quân sự, bí mật quốc gia;”

2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm này được thể hiện ở hành vi từ chối chấp hành hoặc cố tình không thực hiện mệnh lệnh của người chỉ huy trực tiếp hoặc của cấp trên có thẩm quyền.

Từ chối không thực hiện mệnh lệnh là hành vi, có thể bằng lời nói hoặc hành động, công khai thể hiện sự chống lại mệnh lệnh của người chỉ huy có thẩm quyền.

Cố tình không thực hiện mệnh lệnh là hành vi tuy không công khai thể hiện sự chống lại mệnh lệnh nhưng cố tình không thực hiện nhiệm vụ được giao, mặc dù không có trở ngại gì.

Người chỉ huy trực tiếp là quân nhân được giao chỉ huy một tổ chức bộ đội nhất định từ tiểu đội hoặc tương đương trở lên và người phạm tội thuộc trong biên chế của tổ chức đó. Cấp trên có thẩm quyền là người có chức vụ cao hơn (nếu người phạm tội và người bị hại cùng biên chế trong một tổ chức bộ đội nhất định) hoặc là người có cấp bậc quân hàm cao hơn (nếu không cùng biên chế trong một tổ chức bộ đội).

Nếu người phạm tội và người bị hại không cùng biên chế trong một tổ chức bộ đội nhất định nhưng cùng được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định thì người được giao phụ trách là cấp trên, nếu không ai được giao phụ trách thì người có cấp bậc quân hàm cao hơn là cấp trên.

Mệnh lệnh là lệnh của cấp trên (bằng lời nói hoặc văn bản) bắt buộc cấp dưới phải chấp hành. Mệnh lệnh có thể bị chống lại một phần hay toàn bộ. Mệnh lệnh này phải là mệnh lệnh hợp pháp của người chỉ huy có thẩm quyền.

Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của tội phạm. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người vi phạm thực hiện một trong các hành vi nêu trên.         

2.3. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội chống mệnh lệnh là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người phục vụ trong quân đội mới có thể bị bắt buộc phục tùng mệnh lệnh.

Ngoài ra, người phạm tội phải đáp ứng đủ điều kiện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXV Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội ra mệnh lệnh trái pháp luật là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

Tội chống mệnh lệnh được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp, tức là người phạm tội hoàn toàn nhận thức được hành vi chống mệnh lệnh của mình, biết trước được hậu quả của hành vi này nhưng mong muốn hậu quả xảy ra hoặc dù không mong muốn nhưng có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.

Động cơ phạm tội có thể là do thù tức đối với người chỉ huy, động cơ cá nhân, sợ hy sinh, gian khổ,...Mục đích phạm tội rất đa dạng và có thể là nhằm để người chỉ huy không hoàn thành nhiệm vụ, bị mất uy tín hoặc để được thay đổi nhiệm vụ, vị trí công tác,... Động cơ và mục đích phạm tội tuy không phải là yếu tố bắt buộc để định tội nhưng có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội.

3. Hình phạt đối với người phạm tội chống mệnh lệnh

Điều 394 Bộ luật Hình sự quy định 04 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

- Người nào từ chối chấp hành hoặc cố ý không thực hiện mệnh lệnh của người có thẩm quyền, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;

b) Lôi kéo người khác phạm tội;

c) Dùng vũ lực;

d) Gây hậu quả nghiêm trọng.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Trong chiến đấu;

b) Trong khu vực có chiến sự;

c) Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn;

d) Trong tình trạng khẩn cấp;

đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

- Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Bộ luật Hình sự

Luật Hoàng Anh

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư  vn  min  phí  ngay Chat  vi  lut  sư