Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định pháp luật là gì?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:10 (GMT+7)

Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại Điều 256 BLHS

MỤC LỤC

MỤC LỤC

1. Căn cứ pháp lý

Điều 256 thuộc Chương XX Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy như sau:

“Điều 256. Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy

1. Người nào cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Đối với người dưới 16 tuổi;

d) Đối với 02 người trở lên;

đ) Tái phạm nguy hiểm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

2. Dấu hiệu pháp lý của tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy

2.1. Khách thể của tội phạm

Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý là cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý .

Theo Điều 5 Luật Phòng, chống ma tuý số 73/2021/QH14 của Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 30/3/2021, có hiệu lực từ ngày 01/01/2022, quy định các hành vi bị nghiêm cấm, trong đó:

“Điều 5. Các hành vi bị nghiêm cấm

...

5. Sử dụng, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy; chứa chấp, hỗ trợ việc sử dụng trái phép chất ma túy....”

Đối tượng tác động của tội phạm này chính là người sử dụng ma tuý, nếu không có người sử dụng chất ma tuý thì không thể có người chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý. Người sử dụng chất ma tuý lại không phải là người bị hại mà ngược lại trong một số trường hợp nếu thoả mãn các dấu hiệu của tội sử dụng trái phép chất ma tuý thì họ còn là người phạm tội.

Khách thể của tội “tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” là chế độ quản lý của Nhà nước về việc sử dụng chất ma tuý vào các mục đích chữa bệnh và vì vậy, quan hệ xã hội bị xâm phạm còn bao gồm cả tính mạng, sức khoẻ, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, chủ yếu vẫn là chế độ quản lý về việc sử dụng chất ma tuý.

2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự.

Cho thuê địa điểm để chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý là dùng địa điểm thuộc quyền sở hữu của mình hoặc do mình quản lý hoặc chiếm hữu (hợp pháp hoặc bất hợp pháp) cho người khác sử dụng trái phép chất ma tuý và được người sử dụng trái phép chất ma tuý trả tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác.

Hành vi cho thuê địa điểm cũng tương tự như hành vi cho thuê địa điểm ở tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, chỉ khác ở chỗ: Người cho thuê địa điểm trong tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý là để đưa chất ma tuý vào cơ thể người khác, còn trong tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma tuý người cho thuê địa điểm không có hành vi đưa chất ma tuý vào cơ thể người khác mà việc đưa chất ma tuý vào cơ thể người khác là do người sử dụng trái phép chất ma tuý tự đưa chất ma tuý vào cơ thể của họ hoặc nếu có nhiều người thì có thể họ đưa chất ma tuý vào cơ thể của nhau. Trong trường hợp này, những người sử dụng trái phép chất ma tuý có thể có người có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, còn người cho thuê địa điểm chỉ pham tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý. 

Địa điểm thuộc quyền sở hữu của mình hoặc do mình quản lý là những động sản hoặc bất động sản đã được các cơ quan Nhà nước xác nhận thuộc quyền sơ hữu hoặc được giao quản lý, chiếm hữu như: nhà ở, tầu, thuyền, xe ô tô, trụ sở cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; nhà hàng, khách sạn không thuộc sở hữu của mình nhưng được chủ sở hữu giao cho quản lý...

Nếu cho thuê địa điểm để người thuê sử dụng vào việc khác nhưng sau khi thuê người thuê lại dùng địa điểm để sử dụng trái phép chất ma tuý mà người cho thuê không biết thì người cho thuê địa điểm không phạm tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý.

Cho mượn địa điểm để chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý là dùng địa điểm thuộc quyền sở hữu của mình hoặc do mình quản lý hoặc chiếm hữu (hợp pháp hoặc bất hợp pháp) cho người khác sử dụng trái phép chất ma tuý nhưng không buộc người sử dụng trái phép chất ma tuý phải trả tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác.

Nếu người có địa điểm để người khác sử dụng trái phép chất ma tuý nhưng không biết có việc sử dụng trái phép chất ma tuý thì cũng không phải là hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý.

Hành vi khác chứa chấp sử dụng trái phép chất ma tuý là ngoài hành vi cho thuê hoặc cho mượn địa điểm nhưng vẫn chứa chấp được việc sử dụng trái phép chất ma tuý. Có thể nói, ngoài việc cho thuê, cho mượn địa điểm để người khác sử dụng trái phép chất ma tuý ra, thì cũng khó có trường hợp nào khác mà có thể chứa chấp được người sử dụng trái phép chất ma tuý, vì việc sử dụng trái phép chất ma tuý phải có địa điểm mặc dù địa điểm có thể là nơi này hoặc nơi khác, của người này hoặc người khác, có thể người sử dụng trái phép chất ma tuý thuê hoặc mượn hoặc tự tìm kiếm. Tuy nhiên, để tránh việc để lọt những hành vi chứa chấp sử dụng trái phép chất ma tuý khác, nên nhà làm luật quy định có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý.

Hậu quả của các tội phạm về ma tuý nói chung và hậu quả của tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy nói riêng không phải là yếu tố bắt buộc để định tội. Những thiệt hại do hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy gây ra cho xã hội chính là những thiệt hại phi vật chất ( chính sách quản lý của Nhà nước đối với sử dụng trái phép chất ma túy). Riêng đối với hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy là tham gia vào quá trình làm tăng số lượng người sử dụng trái phép chất ma tuý trong xã hội.

2.3. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy). Như vậy tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại Điều 256 Bộ luật Hình sự có chủ thể thực hiện tội phạm phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

Chủ thể của tội phạm có thể là cá nhân thực hiện tội phạm một mình nhưng cũng có thể là nhiều người cùng thực hiện tội phạm. Trường hợp nhiều người thực hiện cùng một tội phạm được quy định theo Điều 17 Bộ luật Hình sự:

“Điều 17. Đồng phạm

1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.

3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

4. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.”

2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy thực hiện hành vi phạm tội của mình do lỗi cố ý trực tiếp, tức là nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy nhưng vẫn thực hiện.

Mục đích của người phạm tội là dấu hiệu bắt buộc, tức là người phạm tội biết rõ người thuê địa điểm, mượn địa điểm là để sử dụng trái phép chất ma tuý nhưng vẫn cho thuê, cho mượn và mong muốn người thuê, người mượn địa điểm của mình đưa được chất ma tuý vào cơ thể của họ với nhiều động cơ khác nhau, riêng hành vi cho thuê địa điểm là vì vụ lợi. Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh mục đích của người phạm tội. Nếu không chứng minh được mục đích của người phạm tội thì không phải là phạm tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý.

3. Hình phạt đối với người phạm tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy

Điều 256 Bộ luật Hình sự quy định 03 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

- Người nào cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội khác.

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy là do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi phạm tội đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện tội phạm một cách dễ dàng.

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy 02 lần trở lên là đã có tất cả hai lần chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy trở lên mà mỗi lần phạm tội đều có đầy đủ yếu tố cấu thành tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, đồng thời trong số các lần chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

c) Đối với người dưới 16 tuổi;

Điều 417 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 6 Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH quy định cách xác định tuổi của nạn nhân dưới 18 tuổi như sau:

Việc xác định tuổi của người bị hại dưới 18 tuổi căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu sau:

+ Giấy chứng sinh;

+ Giấy khai sinh;

+  Chứng minh nhân dân;

+ Thẻ căn cước công dân;

+ Sổ hộ khẩu;

+ Hộ chiếu.

Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của họ được xác định:

+ Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.

+ Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh.

+ Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.

+ Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.

Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi.

d) Đối với 02 người trở lên;

Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy đối với 02 người trở lên là trường hợp một lần chứa chấp cho hai người trở lên sử dụng trái phép chất ma tuý. Nếu người phạm tội nhiều lần mà mỗi lần chưa chấp cho hai người trở lên sử dụng trái phép chất ma tuý, thì vừa thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần vừa phạm tội đối với nhiều người. 

đ) Tái phạm nguy hiểm.

Tái phạm nguy hiểm là trường hợp đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

Như vậy chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy trong trường hợp tái phạm nguy hiểm là trường trước đây họ đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà đã chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy hoặc trước đây họ đã bị kết án về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích mà nay lại tiếp tục chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

- Khung hình phạt bổ sung, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

4. Vụ án thực tế xét xử về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy

Bản án số 32/2021/HSST ngày 8/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ tỉnh Bình Định “V/v xét xử bị cáo Trần Thị Thu T phạm tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy”.[1]

Khoảng  10  giờ 00  phút,  ngày  17/12/2020, Nguyễn  Hữu Đ, sinh năm 1992; Nguyễn Văn N, sinh năm 1998; ĐỗQuang D1, sinh năm 1999; Trần Đức S, sinh năm 1993; Nguyễn Văn V, sinh năm 2000 và Thái Minh H, sinh năm 1999 đồng trú tại thôn 11, xã MT, huyện PM, tỉnh BĐ tổ chức nhậu tại nhà H. Đến 17 giờ cùng ngày, cả nhóm nảy sinh ý định đi bay (sử dụng ma tuý) và tiến hành góp tiền đưa cho Đ giữ; Đ và S mỗi người góp 1.000.000 đồng, còn D1, N, H, V mỗi người góp 500.000 đồng. Tiếp đến, Đ gọi xe taxi đến chở cả nhóm đi và gọi điện  rủ Võ Văn D, sinh năm 1996, trú tại  thôn 9, xã  MT, huyện  PM,  tỉnh BĐ lên  thị trấn BD chơi (cả 2 đều hiểu là đi lên BD để sử dụng ma tuý), D đồng ý thì cả nhóm đi taxi đến thôn 9, xã MT đón D rồi cùng đi đến  thị trấn BD.

Trên đường đi, D hỏi Đ đặt phòng chưa, Đ nói chưa và bảo D đặt phòng, D đồng ý rồi nhắn tin cho Trần ThịThu T là người quản lý Cơ sở kinh doanh karaoke HC (HCOOL), địa  chỉ số 131  NN,  thị trấn  BD, huyện PM, tỉnh BĐ, thỏa thuận đặt phòng số 5 ở tầng 1 của cơ sở để bay (sử dụng ma túy) với số tiền 2.000.000đồng / 01 đêm.

Khi nhóm Đ đi đến quán thì T chỉ lên phòng số5 ởtầng 1 của quán, rồi cùng Phạm Thị Hoa H, sinh năm 1999, trú tại thôn AL2, xã MH, huyện PM - Nhân viên phục vụ quán, bưng bê nước ngọt, nước suối, đá, ... lên cho nhóm Đ. Biết nhóm D, Đ thuê phòng để sử dụng ma tuý nên T đã chuẩn bị sẵn các dụng cụ sử dụng ma túy như đĩa sứ, ống hút nhựa, thẻ ATM,... Sau khi lên phòng thì Đ đưa số tiền cả nhóm góp lại trước đó cho D và bảo D đi mua ma túy về cho mọi người cùng chơi. D cầm tiền đi xuống trước quán gọi cho một người tên H ở thành phố QN đặt mua ma túy Ketamine với số tiền 4.000.000đ, người tên H này bảo D đi qua phía đối diện với quán chờ người mang đến. D đi qua phía đối diện quán đứng một lúc thì có 01 xe ô tô 04 chỗ không rõ biển số đến, có một thanh niên lạ ngồi trong xe kéo kính xuống đưa bì ma túy cho D rồi D giao tiền. Sau đó, D cầm bì ma túy lên phòng dùng những dụng cụ mà T đã chuẩn bị sẳn, sơ chế ma  túy  rồi  gọi  mọi người đến hít, có lúc D bưng đĩa ma túy đến đưa từng người hít rồi mở nhạc mạnh nhảy. Một lúc sau, H ngồi dưới quầy một mình thấy buồn nên tự đi lên phòng tham gia sử dụng ma tuý với nhóm Đ một lúc rồi xuống phòng ngủ (do H có quen biết với Đ, D từ trước). Quá trình sử dụng ma tuý T có thấy, biết do nhiều lần T phục vụ bưng nước lên phòng nhưng T không nói gì và không có hành động ngăn cản gì. Đến khoảng 22 giờ30 phút cùng ngày, khi Phạm Thị Hồng H1, sinh năm 1999, trú tại thôn AL2, xã MH huyện  PM,  tỉnh BĐ đến quán tìm H nhưng khi lên phòng không thấy H mà thấy nhóm Đ đang sử dụng ma tuý nên H1 tự ý vào sử dụng chung với nhóm Đ (do H1 có quen  biết  với Đ, D từ trước).

Đến khoảng 00 giờ 55 phút ngày 18/12/2020, tổ công tác Công an huyện Phù Mỹ phối hợp với Công an TT Bình Dương tiến hành kiểm tra, phát hiện bắt quả tang và thu giữ tang vật.

Ngày 18/12/2020,  Phòng  kỹ thuật  hình  sự - Công  an  tỉnh Bình Định giám định và kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ là ma túy Ketamine có khối lượng là 0,2643 gam.

Từ hành vi trên của bị cáo Trần Thị Thu T, Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ tỉnh Bình Định quyết định:

Tuyên bố bị cáo Trần Thị Thu T phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Trần Thị Thu T 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án;được trừ thời gian tạm giữ trước, từ ngày 18/12/2020 đến ngày 24/12/2020.

Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Bộ luật Hình sự

Luật Hoàng Anh

 


[1] https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta729089t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 28/07/2021.

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư