Tội đưa hối lộ là gì?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:56:39 (GMT+7)

Tội đưa hối lộ quy định tại Điều 364 BLHS.

MỤC LỤC

MỤC LỤC

1. Căn cứ pháp lý

Điều 364 Chương XXIII Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định tội đưa hối lộ như sau:

Điều 364. Tội đưa hối lộ

1. Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;

b) Lợi ích phi vật chất.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

c) Dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

đ) Phạm tội 02 lần trở lên;

e) Của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

3. Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.

4. Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt từ tù 12 năm đến 20 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

6. Người nào đưa hoặc sẽ đưa hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công, người có chức vụ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước cũng bị xử lý theo quy định tại Điều này.

7. Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.

Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.

2. Dấu hiệu pháp lý của tội đưa hối lộ

2.1. Khách thể của tội phạm

Đưa hối lộ là hành vi dùng tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác hoặc lợi ích phi vật chất trực tiếp hoặc qua trung gian để đưa cho người có chức vụ, quyền hạn, để người này làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của mình.

Có thể xác định được ngay khách thể của tội đưa hối lộ là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, cao hơn là chính thể bị sụp đổ.

Đối tượng tác động của tội nhận hối lộ là tiền; tài sản; lợi ích vật chất khác hoặc lợi ích phi vật chất. Trong thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp người nhận hối lộ không nhận tiền hoặc tài sản, nhưng cái mà họ được người đưa hối lộ lại là một lợi ích vật chất, nhưng lợi ích này không tính ra tiền được hoặc chưa tính ra được bằng tiền. Ví dụ: Hứa cho hưởng hoa lợi, hưởng lãi suất cao, hứa cho đi du học v.v... các lợi ích này tuy là lợi ích vật chất nhưng lại không tính ra được bằng một số tiền cụ thể, có cũng không tồn tại dưới dạng tài sản cụ thể. Lợi ích phi vật chất là những lợi ích không phải bằng tiền hay vật chất, đó là những lợi ích về tinh thần.

2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội đưa hối lộ được thể hiện ở hành vi trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.

Hành vi khách quan của tội này là hành vi đưa hoặc “sẽ đưa” (hành vi hình thành trong tương lai). Nhưng biểu hiện của hành vi này rất đa dạng.

Có trường hợp người phạm tội trực tiếp đưa hối lộ cho người nhận hối lộ, có trường hợp qua trung gian (người môi giới) để đưa hối lộ cho người nhận hối lộ, có trường hợp người đưa hối lộ dùng thủ đoạn tinh vi xảo quyệt không trực tiếp đưa hối lộ cho người nhận hối lộ cũng không qua trung gian mà tìm cách mua chuộc những người thân thích của người có chức vụ, quyền hạn theo kiểu “mưa dầm thấm đất”; cũng có trường hợp người đưa hối lộ thông qua việc thanh toán hợp đồng kinh tế, hợp đồng mua bán, thông qua việc nộp thuế, nộp lệ phí để đưa hối lộ từ ít đến nhiều, rồi đến một lúc nào đó người đưa hối lộ mới yêu cầu người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của mình.

Hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội nhận hối lộ. Tội phạm hoàn thành khi thỏa mãn điều kiện lợi ích tối thiểu mà người đưa hối lộ đưa cho người nhận hối lộ được theo quy định tại Khoản 1 Điều 364 Bộ luật Hình sự như sau:

a) Tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;

b) Lợi ích phi vật chất.

Tuy nhiên, Khoản 7 Điều 364 Bộ luật Hình sự cũng đưa ra 02 trường hợp ngoại lệ như sau:

- Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.

- Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.

2.3. Chủ thể của tội phạm

Tội đưa hối lộ không phải là chủ thể đặc biệt, người phạm tội không nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn và cũng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Việc nhà làm luật quy định tội phạm này trong chương “ các tội phạm về chức vụ” là vì khách thể của tội phạm chứ không phải vì chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, người phạm tội đưa hối lộ cũng có thể là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để đưa hối lộ, nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này.

Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXIII Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội đưa hối lộ là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội đưa hối lộ thực hiện hành vi của mình là cố ý (cố ý trực tiếp), tức là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; không có trường hợp đưa hối lộ nào được thực hiện do cố ý gián tiếp, vì người phạm tội bao giờ cũng mong muốn đưa hối lộ để đạt được mục đích của mình.

3. Hình phạt đối với người phạm tội nhận hối lộ

Điều 364 Bộ luật Hình sự quy định 05 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

- Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;

b) Lợi ích phi vật chất.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

c) Dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

đ) Phạm tội 02 lần trở lên;

e) Của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

- Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.

- Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt từ tù 12 năm đến 20 năm.

- Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

4. Vụ án thực tế về tội đưa hối lộ

Bản án số 06/2021/HS-ST ngày 25/01/2021 “V/v xét xử bị cáo Hồ Văn K tội nhân hối lộ và xét xử bị cáo Vũ Văn T tội đưa hối lộ” của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.[1]

Trong khoảng cuối năm 2016 đến đầu năm 2017, lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo, thiếu trách nhiệm trong công tác tuần tra,  kiểm tra rừng của Trạm Quản lý bảo vệ rừng B, các nhóm đối tượng đã vào Tiểu khu 188, 187A thuộc lâm phần Vườn quốc gia C (địa giới hành chính xã B, huyện N, tỉnh K) để khai thác gỗ trái phép số lượng 37 cây gỗ với tổng khối lượng 161,179 m3 quy tròn. Cụ thể như sau:

* Nhóm Vũ Văn T, Trần Kim Q và Nguyễn Thị D:

Vào cuối năm 2016, sau khi bàn bạc Vũ Văn T, Trần Kim Q và Nguyễn Thị D thống nhất về việc tìm thợ cưa vào Vườn Quốc gia C, thuộc Tiểu khu 188 khai thác gỗ để bán, lấy tiền chia nhau tiêu xài. T, Q là người trực tiếp liên hệ và đặt vấn đề với các đối tượng đưa vào rừng để cắt hạ, xẻ hộp các cây gỗ, còn D ở nhà lo nấu cơm nước và ứng tiền, chi tiền cho thợ cưa vào rừng xẻ gỗ và thu tiền khi Q và T mua gỗ chở về bán cho các xưởng gỗ trên địa bàn.

T, Q đã thuê Thao T, Thao Đ (là thợ cưa) và được T, Q dẫn vào rừng Vườn Quốc gia C chỉ cây để cưa, cắt hạ, xẻ hộp các loại cây gỗ Dổi, gỗ Re Hương theo quy cách mà T đưa ra là hộp vuông kích thước nhiều loại khác nhau, dài từ 2m đến 2,5m, rồi vận chuyển gỗ ra bìa rừng (địa điểm thuận lợi) để T mua với giá từ 4,5 triệu đến 5 triệu đồng/1 m3 và được Thao T, Thao Đ đồng ý.

Sau đó, nhóm Thao T vào Tiều khu 188, đã cưa hạ, xẻ hộp được 08 cây, loại gỗ Dổi, Re Hương, Sến Mủ với tổng khối lượng quy tròn là 44,270 m3 và vận chuyển đưa ra bìa rừng giao lại cho T và Q được 11m3 gỗ xẻ hộp, được T thanh toán với số tiền 30.000.000 đồng. Số lượng gỗ còn lại còn trong rừng là 26,67m3 quy tròn. Nhóm Thao Đ cũng vào Tiểu khu 188 thuộc Vườn Quốc gia C cắt hạ 04 cây gỗ Dổi với khối lượng 11,292m3 quy tròn, xẻ hộp được 4,5m3 rồi vận chuyển gỗ ra bìa rừng giao cho T, được T thanh toán với số tiền là 15.000.000 đồng.

Như vậy, Vũ Văn T, Trần Kim Q, Nguyễn Thị D đã có hành vi khai thác, mua bán trái phép với tổng khối lượng 55,562m3 gỗquy tròn, loại gỗ thông thường từ nhóm III đến nhóm VIII, thuộc rừng Đặc dụng, là vượt mức tối đa xử phạt hành chính  theo  quy  định  tại  điểm a khoản 3 Điều 12 Nghị Định 157/CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ.

* Nhóm của Vũ Văn H:

Trong khoảng thời gian tháng 12/2016 (không nhớ ngày), Vũ Văn H thuê các đối tượng vào rừng Quốc gia C, thuộc Tiểu khu 187A, 188 cắt hạ, xẻ hộp và có  hành  vi  khai thác,  mua  bán  trái  phép  39,289  m3gỗ quy  tròn,  chủng  loại  gỗ thông thường từ nhóm III đến nhóm VIII, rừng Đặc dụng; là vượt mức tối đa xửphạt hành chính theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 12 Nghị Định 157/CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ.

* Hành vi đưa hối lộvà nhận hối lộ:

Để đưa được người vào tiểu khu 188, 187A, vườn Quốc gia C, khai thác gỗ trái phép với khối lượng như trên, trong khoảng thời gian cuối năm 2016, Vũ Văn T đã trực tiếp gặp liên hệ, đưa số tiền 5.000.000 đồng cho Hồ Vĩnh K là Trạm trưởng Trạm Quản lý bảo vệ rừng B, thuộc Ban quản lý vườn Quốc gia C, với mục đích xin ông K làm ngơ để T đưa nhóm thợ cưa gỗ là Thao T và Thao Đ vào rừng khai thác gỗ trái phép. Cũng trong khoảng thời gian nêu trên, Vũ Văn H tìm gặp, đưa số 4.000.000 đồng cho Hồ Vĩnh K, để H đưa người vào rừng thuộc Tiểu khu 188, 187A, vườn Quốc gia C khai thác gỗ trái phép.

Hành vi của Hồ Vĩnh K lợi dụng chức vụ, quyền hạn là Trạm trưởng, Trạm quản lý bảo vệ rừng B nhận tiền của Vũ Văn T và Vũ Văn H với tổng số tiền là 9.000.000 đồng, để tạo điều kiện cho nhóm của T và H vào lâm phần Vườn Quốc Gia C khai thác gỗ trái phép với tổng khối lượng 94,851m3 gỗ các loại vào đầu năm 2017.

Ngày 06/11/2019, Cơ quan điều tra đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tốtụng hình sựtỉnh Kon Tum, định giá và kết luận tổng giá trị thiệt hại về tài sản là: 438.408.314 đồng.

Như vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum quyết định tuyên bố Bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Đưa hối lộ”; xử phạt Bị cáo 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Bộ luật Hình sự

Luật Hoàng Anh


[1] https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta656385t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 13/09/2021

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư