Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh là gì?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:15 (GMT+7)

Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh quy định tại Điều 400 BLHS

1. Căn cứ pháp lý

Điều 400 Chương XXV Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh như sau:

Điều 400. Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh

1. Người nào khi bị địch bắt làm tù binh mà khai báo bí mật công tác quân sự hoặc tự nguyện làm việc cho địch, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;

b) Đối xử tàn ác với tù binh khác;

c) Lôi kéo người khác khai báo, làm việc cho địch;

d) Gây hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Giao nộp cho địch vật, tài liệu bí mật nhà nước hoặc khai báo bí mật nhà nước;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

2. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm

2.1. Khách thể của tội phạm

Trung thành với Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng vừa là vinh dự, truyền thống tốt đẹp, vừa là trách nhiệm của mỗi quân nhân.

Điều này còn được ghi nhận tại Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam như sau:

“Điều 65.

Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.”

Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh trực tiếp xâm phạm kỷ luật chiến đấu, trách nhiệm trung thành với Tổ quốc, bảo vệ bí mật quân sự của quân nhân, truyền thống và bản chất của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Như vậy, khách thể của tội phạm là kỷ luật chiến đấu, trách nhiệm trung thành với Tổ quốc, bảo vệ bí mật quân sự của quân nhân, truyền thống và bản chất của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh thể hiện ở hành vi khai báo bí mật công tác quân sự hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh.

Khai báo bí mật công tác quân sự cho địch là cung cấp cho địch những tin tức thuộc về bí mật quân sự mà người phạm tội biết được khi chưa bị bắt bằng các hình thức: nói, viết, vẽ sơ đồ hoặc các hình thức khác làm cho địch nắm được các thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phòng của Quân đội và Nhà nước ta. Hành vi khai báo bí mật quân sự cấu thành tội phạm không phụ thuộc vào việc khai báo đó là tự nguyện hay do bị địch tra tấn.

Tự nguyện làm việc cho địch là hành vi tự giác làm những việc có tính chất quân sự hoặc phục vụ cho công việc quân sự có hại cho Tổ quốc (như: tự nguyện làm việc trong nhà máy chế tạo vũ khí, tra tấn đồng đội cùng là tù binh, làm phiên dịch,...).

Hậu quả xảy ra không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm người đó khai báo bí mật quân sự cho địch hoặc tự nguyện làm việc cho địch.

2.3. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người được quy định tại Điều 392 Bộ luật Hình sự mới có thể thực hiện tội phạm.

Họ chỉ có thể là:

“Điều 392. Những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân

1. Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng.

2. Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện.

3. Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

4. Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.”

Ngoài ra, người phạm tội phải đáp ứng đủ điều kiện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXV Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Động cơ phạm tội thường là do hèn nhát, tham sống sợ chết, cầu an...và mục đích không phải nhằm chống chính quyền nhân dân.

3. Hình phạt đối với người phạm tội đầu hàng địch

Điều 400 Bộ luật Hình sự quy định 03 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

- Người nào khi bị địch bắt làm tù binh mà khai báo bí mật công tác quân sự hoặc tự nguyện làm việc cho địch, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 07 năm.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;

b) Đối xử tàn ác với tù binh khác;

c) Lôi kéo người khác khai báo, làm việc cho địch;

d) Gây hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Giao nộp cho địch vật, tài liệu bí mật nhà nước hoặc khai báo bí mật nhà nước;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Bộ luật Hình sự

Luật Hoàng Anh

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư  vn  min  phí  ngay Chat  vi  lut  sư