Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả là gì?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:56:42 (GMT+7)

Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả quy định tại Điều 202 BLHS

MỤC LỤC

MỤC LỤC

1. Căn cứ pháp lý

Điều 202 Chương XVIII Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định tội làm, buôn bán tem giả, vé giả như sau:

Điều 202. Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả

1. Người nào làm, buôn bán các loại tem giả, vé giả thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Tem giả, vé giả không có mệnh giá có số lượng từ 15.000 đến dưới 30.000 đơn vị;

b) Tem giả, vé giả có mệnh giá có tổng trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

c) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

d) Thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Tem giả, vé giả không có mệnh giá có số lượng 30.000 đơn vị trở lên;

d) Tem giả, vé giả có mệnh giá có tổng trị giá 200.000.000 đồng trở lên;

đ) Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên;

e) Tái phạm nguy hiểm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

2. Dấu hiệu pháp lý của tội làm, buôn bán tem giả, vé giả

2.1. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm này là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự  trong lĩnh vực quản lý việc in ấn, phát hành, buôn bán các loại tem, các loại vé theo quy định của Nhà nước.

Đối tượng tác động của tội phạm này là các loại tem, các loại vé do Nhà nước in ấn và phát hành dùng vào việc quản lý kinh tế.

Các loại tem do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phát hành tương đối nhiều như: Tem thư do Tổng cục bưu chính phát hành, tem hàng hoá do Bộ tài chính phát hành...

Các loại vé như: Vé tàu, vé xe, vé máy bay, vé xem bóng đá, vé sổ xố, vé thu phí cầu đường, vé xem phim, vé xem kịch....

2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi làm tem giả, vé giả và hành vi buôn bán tem giả, vé giả.

Người phạm tội làm tem giả, vé giả chỉ có một hành vi khách quan là làm ra các loại tem, các loại vé giả bằng nhiều phương pháp và thủ đoạn khác nhau như: in ấn, sao chụp, vẽ hoặc bằng thủ khác để làm ra các loại tem, các loại vé giống như tem thật, vé thật nhằm đánh lừa người khác. Có thể nói, hành vi làm tem giả, vé giả cũng tương tự như hành vi làm hàng giả, nhưng hàng giả ở đây lại là các loại tem, các loại vé, là loại hàng đặc biệt, loại hàng này có thể có giá trị đem mua bán, nhưng cũng có thể không đem mua bán được, nó chỉ có ý nghĩa xác định giá trị hàng hoá hoặc vật phẩm.

Người phạm tội buôn bán tem giả, vé giả có thể thực hiện một trong các hành vi như: Mua, xin, tàng trữ, vận chuyển tem giả, vé giả nhằm bán lại cho người khác; dùng tem giả, vé giả để trao đổi, thanh toán; dùng tài sản (không phải là tiền) đem trao đổi, thanh toán... lấy tem giả, vé giả để bán lại cho người khác.

Nếu người phạm tội làm ra tem giả, vé giả rồi đem bán tem giả, vé giả đó thì không thuộc trường hợp buôn bán tem giả, vé giả mà họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cả hai tội làm, buôn bán tem giả, vé giả.

Người thực hiện hành vi làm, hành vi buôn bán tem giả, vé giả bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp cụ thể như sau:

a) Tem giả, vé giả không có mệnh giá có số lượng từ 15.000 đến dưới 30.000 đơn vị;

b) Tem giả, vé giả có mệnh giá có tổng trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

c) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

d) Thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng.

2.3. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XVIII Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội làm, buôn bán tem giả, vé giả là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

Chủ thể của tội phạm có thể là cá nhân thực hiện tội phạm một mình nhưng cũng có thể là nhiều người cùng thực hiện tội phạm. Trường hợp nhiều người thực hiện cùng một tội phạm được quy định theo Điều 17 Bộ luật Hình sự:

“Điều 17. Đồng phạm

1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.

3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

4. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.”

2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

Người thực hiện hành vi làm, buôn bán tem giả, vé giả là do cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp), tức là nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, biết rõ hành vi của mình là gây thiệt hại cho xã hội.

 

Động cơ, mục đích của người phạm tội này không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, người phạm tội làm, buôn bán tem giả, vé giả bao giờ cũng vì động cơ tư lợi.  

3. Hình phạt đối với người phạm tội làm, buôn bán tem giả, vé giả

Điều 202 Bộ luật Hình sự quy định 03 Khung hình phạt đối cá nhân phạm tội như sau:

- Người nào làm, buôn bán các loại tem giả, vé giả thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Tem giả, vé giả không có mệnh giá có số lượng từ 15.000 đến dưới 30.000 đơn vị;

b) Tem giả, vé giả có mệnh giá có tổng trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

c) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

d) Thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Tem giả, vé giả không có mệnh giá có số lượng 30.000 đơn vị trở lên;

d) Tem giả, vé giả có mệnh giá có tổng trị giá 200.000.000 đồng trở lên;

đ) Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên;

e) Tái phạm nguy hiểm.

- Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

4. Vụ án thực tế xét xử về tội làm, buôn bán tem giả, vé giả

Bản án số 78/2018/HS-ST ngày 25/10/2018 “V/v xét xử bị cáo Trần H H - phạm tội làm, buôn bán tem giả, vé giả” của Tòa án nhân dân Q. Hải Châu, TP Đà Nẵng.[1]

Trần H H làm nghề hướng dẫn viên du lịch nên quen biết với một đối tượng tên O (chưa xác định họ tên, địa chỉ). O nói với H có thể làm giả vé tham quan du lịch nội thành Huế, tuyến 4 điểm (HoàngCung –Khải Định –Tự Đức –Minh Mạng) và bán với giá 70.000 đồng/01 vé. H đồng ý mua 100 vé và tìm người sử dụng các vé giả đó cho O. H nhờ một người quen của O (chưa xác định họ tên, địa chỉ) giao cho O số tiền 7.000.000 đồng.

Ngày 31/01/2018, O gửi qua đường bưu điện đến địa chỉ đườngY, phường V, quận C, thành phố Đà Nẵng cho H 02 lốc vé tham quan nội thành Huế giả, 01 con dấu “Ngày tháng năm” và 01 con dấu “Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế” để đóng vào vé tham quan giả.

Sau khi nhận vé và con dấu giả, H nhận thấy trên vé không giống vé thật nên có liên hệ lại với O. H yêu cầu O trả lại số tiền 7.000.000 đồng. O trả lại cho H số tiền trên thông qua tài khoản ngân hàng của Đ (chưa xác định họ tên, địa chỉ), Đ rút tiền và giao lại cho H. Sau đó, O trao đổi với H cứ thử bán cho khách hàng, nếu bán được sẽ chia khoảng 10% cho H; H đồng ý. H liên hệ với Phạm Đức M, M đồng ý mua lại của H 12 vé tham quan giả, với giá 200.000 đồng/ 01 vé. H giao cho M 12 vé tham quan giả tại đường Dương Đình Nghệ, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng và M giao số tiền 2.400.000 đồng cho H tại quán cà phê đường Tiểu La, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng (H thu lợi số tiền 240.000 đồng). Sau đó, M dẫn đoàn khách tham quan nội thành Huế nhưng M sợ nên không sử dụng số vé giả trên mà xé hủy, vứt vào thùng rác tại nội thành Huế.

Đến ngày 04/02/2018, M tiếp tục mua của H 14 vé tham quan giả trên, giao nhận tại bùng binh Nguyễn Hữu Thọ, lối vào sân bay quốc tế Đà Nẵng với giá 180.000  đồng/01 vé. M giao cho H số tiền 2.520.000 đồng (H thu  lợi  số  tiền 252.000 đồng). Sau khi mua được vé giả, M bán lại số vé trên cho Vũ Quang D với giá 200.000 đồng/ vé và nhận tổng số tiền là 2.800.000 đồng tại Chùa Linh Ứng, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. M nói với D số vé trên là vé thật do trong nội thành tuồn ra ngoài bán nên giá rẻ hơn mua trực tiếp tại nội thành.

Lúc 15 giờ 30 phút ngày 04/02/2018, D dẫn đoàn khách du lịch Hàn Quốc gồm14 người đi tham quan tại nội thành Huế và sử dụng 14 vé tham quan giả đã mua của M để vào cổng. Khi đang tham quan thì D bị phát hiện sử dụng vé giả nên D bỏ trốn và số vé này đã được Phòng PA81 –Công an tỉnh Thừa Thiên Huế thu giữ nêu trên. H nghe thông tin vé giả bị phát hiện nên đã vứt các vé giả còn lại cùng 01 con dấu “Ngày tháng năm” và 01 con dấu “Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế” vào thùng rác trên đường Trần Tấn Mới, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng (không thu được). Đồng thời, H xóa hết các số điện thoại, tin nhắn liên quan đến sự việc trên.

Ngày 01/3/2018, O tiếp tục gửi cho H 02 lốc gồm 174 vé giả tham quan nội thành Huế thông qua địa chỉ đườngY, phường V, quận C, thành phố Đà Nẵng. Ngày 03/3/2018, phòng PA81 – Công an tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp với Phòng PA81 – Công an thành phố Đà Nẵng, Công an phường Hòa Thuận Tây, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng kiểm tra hành chính tại nhà đường Y, phường V, quận C, thành phố Đà Nẵng phát hiệnTrần H H có hành vi buôn bán vé giả.

Như vậy, hành vi bán vé tham quan du lịch giả của Trần H H đã phạm vào tội “Buôn bán vé giả” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 202 của Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thì thấy: Bị cáo Trần H H nhận thức rõ hành vi mua bán vé du lịch giả là vi phạm pháp luật nhưng vì vụ lợi nên vẫn thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm.

Tòa án nhân dân quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng quyết định tuyên bố bị cáo Trần H H phạm tội “Buôn bán vé giả”. Xử phạt Trần H H 12 (mười hai) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 tháng kể từ ngày tuyên án.

Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Bộ luật Hình sự

Luật Hoàng Anh


[1] https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta216618t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 28/09/2021.

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư