Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân là gì?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:02 (GMT+7)

Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân quy định tại Điều 160 BLHS

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Bầu cử, ứng cử hay biểu quyết là các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Do vậy, bất kỳ ai xâm phạm đến quyền này đều có thể bị xử lý theo pháp luật. Pháp luật Hình sự quy định một điều luật riêng về tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân.

1. Căn cứ pháp lý

Điều 160 thuộc Chương XV Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân như sau:

“Điều 160. Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân

1. Người nào lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở công dân thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 02 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Dẫn đến hoãn ngày bầu cử, bầu cử lại hoặc hoãn việc trưng cầu ý dân.

3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

2. Dấu hiệu pháp lý của tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân

2.1. Khách thể của tội phạm

Hành vi xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân của công dân là bằng những hình thức khác nhau làm cho quyền bầu cử, ứng cử, quyền biểu quyết của người dân không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không đúng với ý chí của họ.

Hiến pháp năm 2014 quy định tại Điều 27 và Điều 29 như sau:

“Điều 27.

Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định.”

“Điều 29.

Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.”

Quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân còn được cụ thể hoá bởi những quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015, cũng như các quy định cụ thể về việc tổ chức bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân được quy định tại Luật Trưng cầu ý dân năm 2015.

Như vậy, khách thể của tội phạm là quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân của công dân và các quy định pháp luật về bầu cử, ứng cử hay trưng cầu ý dân.

2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở việc thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân của công dân, cụ thể:

Lừa gạt là hành vi dùng thủ đoạn gian dối khiến người khác hiểu lầm về tiêu chuẩn, uy tín, năng lực của các đại biểu nên bầu không đúng với những người mà ban đầu họ nhận thức; giải thích xuyên tạc cách thức ghi trong phiếu khiến cử tri bầu không đúng người mà họ tín nhiệm hay làm cho phiếu của họ không hợp lệ; lợi dụng người khác nhờ bỏ phiếu (người này bị tật nguyền, bị mù, không biết chữ...) mà ghi sai ý kiến của họ.

Ví dụ: Bà D muốn bỏ phiếu bầu ông H vào Hội đồng nhân dân tỉnh, nhưng C đến nói dối với bà D là ông H đang bị Thanh tra tỉnh kiểm tra tài chính, vì ông H gây thất thoát cho cơ quan gần một tỷ đồng, sau khi nghe C nói vậy, bà D đã gạch tên ông H trong phiếu bầu. 

Mua chuộc là dung tiền hoặc lợi ích vật chất, tinh thần để lôi kéo người khác theo ý mình làm chấp hành làm cho người khác không thực hiện được hoặc thực hiện không đúng quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết của họ. Không thực hiện được hoặc thực hiện không đúng quyền bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân là trường hợp người đi bầu cử phải bỏ phiếu cho người theo yêu cầu của người phạm tội hoặc người trong danh sách bầu cử bị mua chuộc để rút khỏi danh sách bầu cử,...

Ví dụ: Đỗ Văn N vì sợ không trúng vào đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, nên đã sai thuộc hạ tổ chức mua chuộc các cử tri, bằng cách dùng tiền ngân sách chi bồi dưỡng để bỏ phiếu cho N.

Cưỡng ép là hành vi dùng quyền lực hăm doạ, dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ép buộc người khác không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết của họ. Ví dụ: Th đã được M mua chuộc nên đã đe doạ một số cử tri phải bỏ phiếu cho M nếu không sẽ bị gây khó dễ trong việc mua bán ở chợ. Vì sợ, nên một số cử tri này đã phải bỏ phiếu cho M.

Thủ đoạn khác là những thủ đoạn không phải là lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép. Nhà làm luật quy định như vậy là có ý dự phòng những trường hợp không phải là lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép mà vẫn cản trở quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết của công dân thì vẫn là hành vi cấu thành tội phạm này. Ví dụ: Tại phòng bỏ phiếu, X không trực tiếp lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép bất cứ cử tri cụ thể nào nhưng lại tuyên truyền, vận động mọi người tập trung bỏ phiếu cho ông D, bị những người có trách nhiệm nhắc nhở nhiều lần nhưng X không chấm dứt hành vi của mình.

Hậu quả của tội phạm này là những thiệt hại về quyền của con người được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ, mà cụ thể là quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân bị xâm phạm.

Nếu người phạm tội do thực hiện những thủ đoạn như lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép hoặc thủ đoạn khác cản trở việc thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân mà còn gây ra những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự hoặc về tài sản thì người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng với hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Ví dụ: Chị L bị anh H đe doạ nếu không rút ra khỏi danh sách ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân huyện thì biết tay. Vì sợ H hành hung, nên chị L đã đề nghị Ban tổ chức bầu cử cho mình được rút ra khỏi danh sách ứng cử, nhưng ban tổ chức động viên chị không nên làm như vậy, chị L không rút ra khỏi danh sách ứng cử nên bị H hành hung gây thương tích có tỷ lệ thương tật là 21%. Ngoài hành vi xâm phạm quyền ứng cử của công dân, anh H còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi cố ý gây thương tích cho người khác theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tội phạm hoàn thành khi có một trong các hành vi miêu tả trong mặt khách quan xảy ra.

2.3. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân của công dân cũng phải đảm bảo các yếu tố cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới có thể là chủ thể của tội phạm này, còn người dưới 16 tuổi không phải là chủ thể của tội phạm này, vì tội phạm này cả khoản 1 và khoản 2 đều là tội phạm ít nghiêm trọng.

Người phạm tội phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu người phạm tội không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế năng lực trách nhiệm hình sự thì được loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 Bộ luật Hình sự.

Nói chung, chủ thể của tội phạm này là bất kỳ, nhưng trong một số trường hợp người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn nhất định. Đối với những người này, thông thường phạm tội thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn, cá biệt có trường hợp vì động cơ cá nhân hoặc vụ lợi mà xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết của công dân.

2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

Tội xâm phạm được thực hiện do lỗi cố, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết của người khác là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Nếu do không am hiểu pháp luật, không nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật mà vô tình tiếp tay cho người phạm tội, thì không phải là hành vi phạm tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân của công dân. 

Người phạm tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của người khác với nhiều động cơ khác nhau; động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nên việc xác định động cơ phạm tội của người phạm tội chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.

Mục đích của người phạm tội là mong muốn cản trở được người khác thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử của họ.

3. Hình phạt đối với người phạm tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân

Điều 160 Bộ luật Hình sự quy định 03 khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

- Khung hình phạt phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm đối với người nào lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở công dân thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân.

- Khung hình phạt phạt tù từ 01 năm đến 02 năm khi người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:

a) Có tổ chức;

Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền của công dân có tổ chức là trường hợp có nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau,vạch kế hoạch để thực hiện hành vi xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân của công dân, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.

Xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân của công dân có tổ chức là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia, trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu. Người cầm đầu có thể là người có chức vụ, quyền hạn nhưng cũng có thể là người bình thường; nếu là người có chức vụ, quyền hạn và lại lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội thì còn thuộc trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội quy định tại điểm b khoản 2 của điều luật.

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân của công dân là do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi phạm tội đó, có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ; nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dụng thủ đoạn khác cản trở việc thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện tội phạm một cách dễ dàng. Tuy nhiên, người phạm tội có việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân thì mới thuộc trường hợp phạm tội này.

c) Dẫn đến hoãn ngày bầu cử, bầu cử lại hoặc hoãn việc trưng cầu ý dân.

Đây là trường hợp hành vi phạm tội của người phạm tội đã làm cho tình hình phức tạp nên ngày bầu cử không diễn ra đúng kế hoạch; kết quả bầu cử không minh bạch, không chọn được những người có đủ phẩm chất và năng lực; nhân dân không tin tưởng vào kết quả bầu cử nên phải bầu cử lại lần hai dẫn đến sự tốn kém và ảnh hưởng đến vấn đề chính trị.

- Khung hình phạt bổ sung, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Luật Hoàng Anh

 

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư