Viện kiểm sát rút quyết định truy tố khi nào?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:17 (GMT+7)

Bài viết trình bày về việc Viện kiểm sát rút quyết định truy tố theo quy định của BLTTHS.

1. Cơ sở pháp lý

Căn cứ Điều 285 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) Viện kiểm sát rút quyết định truy tố được quy định như sau:

“Điều 285. Viện kiểm sát rút quyết định truy tố

Khi xét thấy có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự thì Viện kiểm sát rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án.”

2. Quy định của BLTTHS 2015 về việc viện kiểm sát rút quyết định truy tố

Rút quyết định truy tố là việc Viện kiểm sát rút lại quyết định truy tố bị can trước Tòa án khi có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 của BLTTHS hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát rút quyết định truy tố khi có một trong nhóm căn cứ sau:

- Thứ nhất, có một trong những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự quy định tại Điều 157 BLTTHS 2015, bao gồm: Không có sự việc phạm tội; Hành vi không cấu thành tội phạm; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm đã được đại xá; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác; Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.

- Thứ hai, có căn cứ miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 16 hoặc 29 BLHS, bao gồm: Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Khi có quyết định đại xá; Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.

Đối với trường hợp, người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự, thì Viện kiểm sát có thể rút quyết định truy tố. Bởi lẽ, đây là căn cứ có thể miễn chứ không phải căn cứ miễn trách nhiệm hình sự.

- Thứ ba, có căn cứ có thể miễn trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS. Theo quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS thì người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của BLHS, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại mục 2 Chương XII “Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” trong BLHS cụ thể:

“a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;

b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;

c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án.”

Khi áp dụng tình tiết này cần lưu ý: các căn cứ quy định tại các điểm a, b và c khoản 2 Điều 91 BLHS chỉ là căn cứ “có thể miễn trách nhiệm hình sự”. Do vậy, Viện kiểm sát có thể rút hoặc không rút quyết định truy tố vụ án về các tội phạm nêu trên.

Khi Viện kiểm sát rút quyết định truy tố (toàn bộ vụ án) và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án thì Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án. Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can, bị cáo mà Viện kiểm sát chỉ rút quyết định đối với một hoặc một số bị can, bị cáo thì Tòa án chỉ đình chỉ vụ án đối với từng bị can, bị cáo.

Xem thêm: Tổng hợp các bài viết của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Luật Hoàng Anh

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư  vn  min  phí  ngay Chat  vi  lut  sư