2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Đình công là hiện tượng xã hội tiềm ẩn nhiều rủi ro, khó quản lý và phát sinh từ tranh chấp, xung đột. Do đó, pháp luật lao động Việt Nam có quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trước, trong và sau khi đình công. Đó là những hành vi nào? Sau đây Luật Hoàng Anh xin trình bày về vấn đề này.
- Bộ Luật lao động số 45/2019/QH14 ngày 20 tháng 11 năm 2019 (Bộ Luật lao động 2019);
Theo góc độ pháp lý, đình công là quyền cơ bản của người lao động, do đó, pháp luật nước nào cũng nên có quy định về hoạt động đình công của người lao động.
Đối với pháp luật Việt Nam, căn cứ theo quy định tại Điều 198 Bộ luật lao động 2019:
Đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện và có tổ chức của người lao động nhằm đạt được yêu cầu trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động và do tổ chức đại diện người lao động có quyền thương lượng tập thể là một bên tranh chấp lao động tập thể tổ chức và lãnh đạo.
Dựa vào quy định này, có thể phân tích khái niệm đình công như sau:
Thứ nhất, đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện, có tổ chức được thực hiện bởi người lao động
Hoạt động đình công do người lao động thực hiện và chỉ có người lao động có thể thực hiện. Một người lao động cũng không thể thực hiện đình công do không gây được áp lực về kinh tế lên người sử dụng lao động. Do vậy, phải có một số lượng lớn người lao động tham gia ngừng việc, thì mới đủ khả năng khiến người sử dụng lao động cân nhắc yêu cầu của người lao động, và đáp ứng điều kiện đầu tiên để trở thành “đình công”. Những người lao động này cũng không ngừng việc hẳn, không đơn phương chấm dứt hợp đồng vì đình công với mục đích đảm bảo yêu cầu của người lao động, nếu đã nghỉ việc, thôi việc đồng loạt thì không còn đáp ứng mục đích của đình công nữa.
Đình công là sự ngừng việc của người lao động dù số lượng là bao nhiêu cũng phải được diễn ra một cách tự nguyện và có tổ chức. Nếu người lao động bị ép thực hiện đình công thì các yêu cầu đối với người sử dụng lao động không phải là yêu cầu, mong muốn của người lao động, dẫn đến hoạt động ngừng việc không còn mang ý nghĩa bảo đảm, nâng cao quyền lợi của người lao động nữa, thì không thể coi là đình công. Tương tự, nếu hoạt động ngừng việc của một nhóm lao động được thực hiện tự phát, không có tổ chức lãnh đạo, dẫn đến không có sự thống nhất trong ngừng việc và các hoạt động khác trong quá trình ngừng việc, có thể xảy ra các hành vi quá khích như đập phá, bạo động,… gây mất trật tự, an ninh xã hội, như vậy không thể coi là đình công hợp pháp.
Thứ hai, đình công được tổ chức và lãnh đạo bởi tổ chức đại diện người lao động có thẩm quyền thương lượng tập thể và là một bên tranh chấp lao động tập thể
Do đình công của người lao động phải có tổ chức, cần có một chủ thể có thể lãnh đạo và tổ chức một cách bài bản, hợp pháp cho hoạt động ngừng việc của người lao động. Chủ thể phù hợp nhất là tổ chức đại diện người lao động vì chủ thể này có sự liên kết chặt chẽ đối với người lao động, đại diện cho người lao động thực hiện thể hiện một số quyền của người lao động với người sử dụng lao động (như đóng góp ý kiến tham khảo để người sử dụng lao động xây dựng nội quy lao động) và cũng là chủ thể có quyền tham gia vào các cuộc họp kỷ luật lao động, tổ chức các hoạt động ngoài giờ cho người lao động như tuyên truyền phòng, chống quấy rối tình dục,… Đồng thời cũng là chủ thể có quyền tham gia và yêu cầu thương lượng tập thể.
Tuy nhiên hiện nay, có nhiều tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở được thành lập và hoạt động. Tổ chức đại diện người lao động có quyền thương lượng là tổ chức đạt đủ tiêu chuẩn về số lượng thành viên do Chính phủ quy định, nếu tại cơ sở có nhiều tổ chức đại diện người lao động có đủ tiêu chuẩn về số lượng thành viên thì tổ chức có nhiều thành viên hơn có quyền yêu cầu thương lượng tập thể. Ngoài ra nếu các tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở không có đủ số thành viên thì có thể kết hợp với nhau để yêu cầu tham gia thương lượng tập thể. Các chủ thể này sau đó trở thành bên tranh chấp trong tranh chấp lao động tập thể về lợi ích, hoặc tranh chấp lao động tập thể về quyền thì có quyền và trách nhiệm lãnh đạo, tổ chức đình công khi không thể giải quyết tranh chấp lao động thông qua hòa giải viên, hội đồng trọng tài.
Thứ ba, đình công có mục đích là đạt được yêu cầu trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Mục đích của đình công không phải để người sử dụng lao động chịu thiệt hại về vật chất hay trả thù người sử dụng lao động. Mục đích của đình công là gây áp lực cho người sử dụng lao động, khiến người sử dụng lao động phải có các động thái phối hợp với người lao động, tổ chức đại diện người lao động giải quyết tranh chấp lao động, hoặc phải có phương án mà các bên tranh chấp cùng chấp nhận được để kết thúc tranh chấp này.
Từ việc phân tích khái niệm đình công, có thể thấy việc nhận dạng đình công phải dựa vào những dấu hiệu cơ bản sau đây:
- Dấu hiệu thứ nhất: Đình công là sự phản ứng của những người lao động thông qua hành vi ngừng việc hoàn toàn. Trong điều kiện bình thường, người lao động có nghĩa vụ phải làm việc theo thỏa thuận trong hợp đồng hoặc sự phân công của người sử dụng lao động. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra bất đồng giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động hay một thể thể khác, tập thể lao động có thể ngững việc nhằm gây áp lực buộc chủ thể kia phải chấp nhận các yêu sách. Sự ngừng việc này được coi là hợp pháp hay bất hợp pháp tùy thuộc vào quy định của pháp luật những đây là dấu hiệu đầu tiên, là thuộc tính cơ bản phản ánh tính chất của đình công.
- Dấu hiệu thứ hai: Đình công là hiện tượng phản ứng có tính tập thể được tiến hành bởi những người lao động. Đình công là biện pháp phản ứng của tập thể lao động. Sự tham gia của tập thể lao động vừa là một trong các biểu hiện bên ngoài của đình công, vừa là một dấu hiệu không thể thiếu của đình công. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt đình công với sự ngừng việc của cá nhân người lao động. Thông thường, nếu cá nhân người lao động tự ý ngừng việc nhằm gây sức ép với người sử dụng lao động sẽ bị coi là vi phạm kỉ luật lao động, cá nhân đó có thể phải chịu chế tài kỉ luật hoặc phải bồi thường thiệt hại (nếu có) cho chủ sử dụng lao động. Nhưng nếu là hành vi ngừng việc được thực hiện bởi tập thể lao động, là nhóm người có cùng động cơ và mục đích hoạt động, phối hợp với nhau một cách chặt chẽ, đồng bộ và có hiệu quả trong quá trình đình công nhằm gây sức ép thì lại được coi là đình công.
- Dấu hiệu thứ ba: Đình công được thực hiện một cách có tổ chức. Tính tổ chức của cuộc đình công được hiểu là người có lãnh đạo đình công, đình công có yêu sách rõ ràng và đã được chuẩn bị trước. Thành phần lãnh đạo đình công có thể là tổ chức đại diện của những người lao động như công đoàn hay nghiệp đoàn hoặc tổ chức đại diện cho người lao động tại doanh nghiệp. Trong thực tế, tính tổ chức của đình công thường thể hiện như sau:
(i) Có một cá nhân hoặc một nhóm người đóng vai trò lãnh đâọ đình công, những người này đại diện cho ý chí của tập thể lao động và tập thể này sẽ tuân thủ sự chỉ đạo của họ trong quá trình đình công
(ii) Có phương án hành động cụ thể được xác định rõ ràng trong từng thời điểm, phương án này thường được chuẩn bị trước khi tiến hành đình công.
(iii) Có phương châm hành động với những nguyên tắc và thể lệ rõ ràng được mọi người tôn trọng;
(iv) Được sự giúp đỡ về vật chất hoặc ủng hộ về tinh thần của các cá nhân hoặc tổ chức khác đối với những người tham gia đình công thông qua vai trò của một tổ chức lãnh đạo chung.
- Dấu hiệu thứ tư: mục đích của đình công là nhằm đạt những yêu sách gắn với lợi ích của tập thể lao động. Khi tiến hành đình công, những người lao động gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại với người sử dụng lao động hay một chủ thể khác để đạt được những yêu sách nhất định.Trong trường hợp nhà nước và người sử dụng lao động không có các biện pháp phù hợp nhằm điều hòa, hạn chế những mâu thuẫn về lợi ích trong quan hệ với người lao động, khiến người lao động cho rằng không còn các biện pháp ôn hòa nào có thể bảo vệ quyền lợi của mình, họ sẽ phản ứng bằng cách ngừng việc tập thể nhằm gây sức ép với nhà nước hoặc chủ sử dụng lao động - đó chính là hiện tượng đình công.
Căn cứ vào tính chất đình công, có thể chia đình công thành hai loại là đình công kinh tế và đình công chính trị.
- Đình công kinh tế: Là những cuộc đình công nhằm gây sức ép với người sử dụng lao động hoặc chủ thể khác để đạt được quyền và lợi ích lớn hơn liên quan đến quan hệ lao động như việc làm, tiền lương, thu nhập, điều kiện lao động.... trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, nghề nghiệp. Đây là loại đình công phổ biến nhất, phản ánh rõ nét bản chất của đình công là biện pháp đấu tranh kinh tế.
- Đình công chính trị: Là những cuộc đình công nhằm gây sức ép để phản đối chính quyền hoặc nhà nước hoặc các đảng phái chính trị nhằm đạt được các mục đích chính trị mà người đình công quan tâm. Thông thường cuộc đình công chính trị là nhằm phản đối chính sách hoặc quy định liên quan đến quyền lợi của giới lao động và xảy ra trên phạm vi quy mô lớn. Đình công chính trị có ảnh hướng lớn đến trật tự, an ninh xã hội và sự tồn tại của các chế độ cầm quyền trong phạm vi quốc gia.
Căn cứ vào mục đích đình công, có thể chia đình công thành hai loại là đình công yêu sách và đình công hưởng ứng.
- Đình công yêu sách là những cuộc đình công nhằm đạt được các yêu sách về quyền và lợi ích cho chính những người lao động tham gia đình công. Điều này cũng không loại trừ trường hợp yêu cầu mà những người đình công đưa ra có thể còn mang lại lợi ích cho những người không tham gia đình công. Pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận những cuộc đình công nhằm giải quyết những tranh chấp lao động thể mới là hợp pháp. Đa số các cuộc đình công hiện nay là đình công yêu sách.
- Đình công hưởng ứng: Là những cuộc đình công nhằm ủng hộ, bày tỏ thái độ đồng tình để hỗ trợ cho cuộc đình công khác trong khi những người tham gia đình công không có yêu sách về quyền và lợi ích của mình. Những cuộc đình công hưởng ứng thường xuất hiện ở những nơi sử dụng lao động tập trung như các khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc trong một ngành, trong những ngành liên quan hoặc khi khi nghiệp đoàn của người lao động kêu gọi ủng hộ.
Căn cứ vào phạm vi đình công, có thể chia đình công thành bốn loại là đình công bộ phận doanh nghiệp, đình công doanh nghiệp, đình công ngành/khu vực và tổng đình công.
- Đình công bộ phận doanh nghiệp: Là những cuộc đình công do tập thể lao động trong phạm vi một doanh nghiệp tiến hành. Trong đó, mô hình doanh nghiệp ở đây được hiểu là một đơn vị sử dụng lao động. Đây là các đơn vị thường xảy ra đình công, cũng là phạm vi đình công thường được pháp luật thừa nhận.
- Đình công ngành/khu vực: Là những cuộc đình công của những người lao động trong phạm vi một ngành/khu vực tiến hành.
- Tổng đình công: Là những cuộc đình công của những người lao động trong phạm vi nhiều ngành hoặc nhiều khu vực trong cả nước tiến hành. Về nguyên tắc, tổng đình công có thể do giới lao động trong phạm vi quốc gia tiến hành.
Căn cứ vào tính hợp pháp của đình công, có thể chia đình công thành hai loại là đình công hợp pháp và đình công bất hợp pháp.
- Đình công hợp pháp: Là các cuộc đình công tuân thủ các quy định của pháp luật. Mục đích cơ bản của các quy định này là để nhà nước kiểm soát đình công, hạn chế những cuộc đình công không cần thiết hoặc có tính chất tiêu diệu đối phương, ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế quốc dân, an ninh quốc phòng. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, đình công được coi là hợp pháp nếu thuộc các trường hợp người lao động có quyền đình công, đồng thời không thuộc các trường hợp đình công bất hợp pháp.
- Đình công bất hợp pháp: Là cuộc đình công vi phạm các quy định pháp luật về đình công.
Căn cứ theo quy định tại Điều 198 Bộ Luật lao động 2019, chủ thể có thẩm quyền tổ chức và lãnh đạo đình công là tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở. Trong đó, tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở là tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyên của người lao động tại một đơn bị sử dụng lao động nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động thông qua thương lượng tập thể hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật về lao động. Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở bao gồm công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp.
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhận và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác, cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao độngl tham gia quản lí nhà nước, quản lí kinh tế-xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kĩ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ chính của tổ chức công đoàn đó là bảo vệ quyền và lợi ích cho người lao động - bên yếu thế trong mối quan hệ đối với người sử dụng lao động.
Sự xuất hiện của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp là một điểm mới của Bộ Luật lao động 2019. Quy định này xuất phát từ việc thúc đẩy áp dụng các công ước cơ bản của Tổ chức Lao động quốc tế trong khuôn khổ Hiệp định thương mại tự do liên minh Châu Âu - Việt Nam. Khi tập thể người lao động xảy ra tranh chấp với người sử dụng lao động, tổ chức công đoàn cũng như tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp sẽ đứng ra làm đại diện cho tập thể người lao động thực hiện các quyền pháp luật quy định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tập thể người lao động.
Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở có quyền tổ chức, lãnh đạo đình công là chủ thể duy nhất có quyền lấy ý kiến về đình công. Hoạt động lấy ý kiến về đình công này nhằm đảm bảo sự tự nguyện, yếu tố quan trọng cho một cuộc đình công hợp pháp (Theo Điều 198 Bộ luật lao động 2019). Các chủ thể được lấy ý kiến là 01 trong 02 nhóm chủ thể sau:
- Người lao động làm việc cho người sử dụng lao động
- Thành viên trong ban lãnh đạo tổ chức đại diện người lao động tham gia thương lượng. Nếu có nhiều tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở mà tổ chức đại diện người lao động có quyền yêu cầu thương lượng tập thể đồng ý cho các tổ chức khác tham gia thương lượng tập thể thì khi lấy ý kiến đình công cũng phải lấy ý kiến của thành viên ban lãnh đạo của các tổ chức đại diện người lao động này.
Nội dung của việc lấy ý kiến đình công gồm ý kiến của người lao động (đồng ý hoặc không đồng ý) và phương án đình công của tổ chức đại diện người lao động có quyền tổ chức, lãnh đạo đình công. Do chỉ có nội dung đơn giản và cơ bản, nên việc lấy ý kiến đình công có thể diễn ra nhanh, thông qua nhiều hình thức khác nhau như phiếu, ký theo danh sách,…
Việc lấy ý kiến đình công dựa trên nguyên tắc quyết định theo đa số, tức là nếu trên 50% người được lấy ý kiến đồng ý thì thực hiện, nếu bằng hoặc dưới 50% người được lấy ý kiến không đồng ý, thì không thực hiện đình công.
Bước 2 này chỉ được thực hiện khi có trên 50% người được lấy ý kiến đồng ý về phương án đình công của tổ chức đại diện người lao động lãnh đạo đình công. Khi xác định đúng số liệu về phần trăm đồng ý biểu tình, tổ chức đại diện người lao động tiến hành ban hành quyết định đình công bằng văn bản.
Quyết định này có ý nghĩa là văn bản ấn định phương án, thời gian, địa điểm, mục đích của đình công, là chứng cứ chứng minh việc đình công được tổ chức một cách đúng quy trình, không trái pháp luật và cũng là căn cứ để các cơ quan có thẩm quyền xem xét hoãn, ngừng đình công trong các trường hợp nhất định.
Nội dung cơ bản của quyết định thể hiện vai trò của nó: Kết quả lấy ý kiến đình công, thời điểm bắt đầu đình công, địa điểm đình công, phạm vi đình công, yêu cầu của người lao động, thông tin cơ bản của người đại diện tổ chức đại diện người lao động và lãnh đạo đình công.
Sau khi ban hành quyết định này, tổ chức đại diện người lao động lãnh đạo đình công có nghĩa vụ thông báo cho người sử dụng lao động, Ủy ban nhân dân cấp huyện và cơ quan chuyên môn về lao động của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (Sở Lao động – Thương binh và Xã hội) để người sử dụng lao động chuẩn bị, và các cơ quan có thẩm quyền thực hiện chức năng quản lý của mình.
Vào thời điểm được ấn định trong quyết định, nếu không bị hoãn đình công bởi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thì người lao động được tổ chức đại diện người lao động lãnh đạo đình công, ngừng việc và có các hoạt động khác không trái với quy định của pháp luật để gây áp lực cho người sử dụng lao động nhằm gây áp lực cho người sử dụng lao động phải chấp nhận yêu cầu từ người lao động. Tuy nhiên, trong quá trình này, các hoạt động kèm theo đình công có thể biến tấu trở thành các hành vi vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến xã hội, cộng đồng. Trong trường hợp này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quyết định ngừng đình công nhưng kèm theo thời hạn nhất định. Hết thời hạn này mà hai bên tranh chấp vẫn chưa giải quyết được tranh chấp lao động cũng như các bất đồng khác thì tổ chức đại diện người lao động lãnh đạo đình công có thể tiếp tục tổ chức đình công.
Như vậy, trình tự đình công không quá phức tạp, đảm bảo cho tổ chức đại diện người lao động và người lao động dễ dàng thực hiện quyền của mình nhất nhưng cũng đảm bảo các cơ quan có thẩm quyền có thể giám sát hoạt động đình công của người lao động.
Theo Điều 208 Bộ luật lao động 2019, có 06 hành vi bị nghiêm cấm trước, trong và sau khi đình công, bao gồm:
Đây là nhóm các hành vi thuộc về “cản trở” các chủ thể khác nhau thực hiện các công việc, hoạt động của mình.
a. Đối với người sử dụng lao động và những chủ thể ủng hộ cho người sử dụng lao động, không được có các hành vi cản trở việc thực hiện quyền đình công của người lao động, do đây là quyền mà pháp luật cho phép người lao động được thực hiện khi họ đạt được các điều kiện mà pháp luật về lao động đề ra như điều kiện về chủ thể tổ chức đình công, điều kiện về quy trình tổ chức đình công, điều kiện về người tham gia đình công, cùng các hành vi, nơi bị cấm đình công,...
Các hành vi ngăn cản của người sử dụng lao động có thể là đe dọa người lao động, cắt lương người lao động, đóng cửa không cho người lao động vào nơi làm việc, phân biệt đối xử người lao động đặc biệt là người lao động là lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động lãnh đạo đình công,... những hành vi này đều bị nghiêm cấm.
b. Đối với tổ chức đại diện người lao động, người lao động và các chủ thể ủng hộ đình công, không được kích động, lôi kéo, ép buộc người lao động đình công. Nguyên nhân do một trong những điều kiện đầu tiên của đình công (Theo Điều 195 Bộ luật lao động 2019) là người lao động phải tự nguyện tham gia. Sự tự nguyện này không chỉ với ý nghĩa không bị ép buộc, mà còn không bị thao túng, lừa gạt để tham gia đình công. Ví dụ:
- Bị ép buộc: Người lao động bị tổ chức đại diện người lao động ép tham gia đình công qua sự đe dọa, bị người lao động khác công kích rằng không tham gia thì sẽ bị tẩy chay tại nơi làm việc,…
- Bị kích động, lôi kéo: Người lao động không có ý định tham gia đình công nhưng bị người lao động khác nói xấu người sử dụng lao động đồng thời khiêu khích người lao động không biết suy nghĩ cho gia đình khi không tham gia đình công,…
c. Đối với tổ chức đại diện người lao động, người lao động và các chủ thể ủng hộ đình công, không được cản trở người lao động không tham gia đình công đi làm việc
Khi tiến hành lấy ý kiến người lao động về đình công, có thể có người không đồng tình với phương án đình công của tổ chức đại diện người lao động, hoặc những người đồng ý đình công nhưng vì một lý do nào đó trong thời gian người sử dụng lao động thu thập ý kiến đến khi tổ chức đình công, người lao động đổi ý, các trường hợp này có thể không tham gia đình công, do đình công phụ thuộc vào ý chí tự nguyện của người lao động.
Hành vi cản trở người lao động không tham gia đình công đi làm việc như chặn cổng nơi làm việc, có các hành vi bạo lực, chửi bới người lao động đi làm việc,… là những hành vi khiến người lao động không thể làm việc một cách bình thường, dẫn tới ảnh hưởng chất lượng công việc, vì vậy bị cấm.
Đây là các hành vi cực đoàn khi tham gia đình công, cũng là những hành vi tiêu biểu thể hiện tính tiêu cực của đình công mất kiểm soát đối với xã hội.
- Các hành vi bạo lực có thể hiểu là bạo lực thể chất và bạo lực tinh thần, một số ý kiến cho rằng bạo lực chỉ bao gồm bạo lực thể chất. Bạo lực thể chất bao gồm các hành vi gây thương tích qua tác động thể chất như đánh, đấm, đá, dùng vũ khí hoặc vật sắc nhọn gây thương tích cho người khác. Các hành vi bạo lực tinh thần bao gồm chửi, mắng, xúc phạm danh dự nhân phẩm,... Về cơ bản, các hành vi này bị pháp luật nói chung lên án, nên việc sử dụng bạo lực đối với người khác kể cả liên quan đến lao động, đình công thì đều bị nghiêm cấm. Những người thực hiện các hành vi này có khả năng bị xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự tùy theo mức độ thực hiện hành vi.
- Hủy hoại máy, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động: Đây là hành vi phá hoại tài sản của người khác, và cũng là hành vi phổ biến đối với hiện tượng đình công mất kiểm soát, biến tấu. Người lao động (hoặc thậm chí không phải người lao động) bị kích động, được cổ xúy, theo đám đông đập phá, hủy hoại thiết bị tài sản của người sử dụng lao động. Trên thực tế hành vi này rất bất lợi với người lao động do người lao động đang hủy hoại thiết bị hỗ trợ mình làm việc, nếu quay trở lại làm việc thì có thể người lao động mất đi thiết bị, máy móc để làm việc cũng như môi trường làm việc đầy đủ an toàn, vệ sinh. Đồng thời, nếu người sử dụng lao động xác minh được danh tính của những người lao động có hành vi này, những người này sẽ bị xử lý kỷ luật, bồi thường thiệt hại cho người sử dụng lao động. Trong trường hợp xấu nhất, những người lao động có hành vi này có thể bị chính người sử dụng lao động khởi kiện.
Các hành vi xâm phạm trật tự, an toàn công cộng có phạm vi tương đối rộng, đó có thể là các hành vi cản trở giao thông, gây tổn hại, rối loạn mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, điện (như cắt dây nối mạng, điện của nơi làm việc), khủng bố, phóng hỏa,... Các hành vi này có đặc điểm chung là không chỉ ảnh hưởng tới người sử dụng lao động mà còn gây mất trật tự, an toàn cho toàn bộ một khu vực. Các hành vi quá khích gây thiệt hại về vật chất, tài sản nghiêm trọng cho những người khác, chính quyền, các công ty vận hành điện, mạng internet, nước,... Những người có các hành vi này có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý hình sự tùy theo mức độ của hành vi và hậu quả mà hành vi đó để lại.
Trên đây là 03 trong 06 hành vi bị nghiêm cấm thực hiện trước, trong và sau khi đình công. Để biết thêm về 03 hành vi còn lại, xin tham khảo: “Các hành vi nào bị nghiêm cấm trước, trong và sau khi đình công? (Phần 2)”.
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh