2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Thuế sử dụng đất nông nghiệp là một khoản thu ngân sách Nhà nước bắt buộc. Vậy cuối năm tính thuế có cần quyết toán kết quả thu thuế này hay không? Việc kết toán diễn ra như thế nào? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết sau đây.
Theo quy định tại Điều 18 Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993, quyết toán kết quả thu thuế như sau:
“Điều 18
Kết thúc năm thuế, cơ quan trực tiếp thu thuế phải quyết toán kết quả thu thuế của từng hộ và báo cáo quyết toán thuế bằng văn bản với cơ quan thuế cấp trên và Uỷ ban nhân dân cùng cấp, đồng thời niêm yết công khai cho nhân dân biết.”
Cụ thể, theo từng cấp việc quyết toán thuế sử dụng đất cuối năm được hướng dẫn trong Điều 4 Mục IV Thông tư số 89-TC/TCT ngày 09/11/1993:
- Ở cấp xã
Lập quyết toán kết quả thu nộp thuế trong năm theo từng hộ nộp thuế, căn cứ vào các tài liệu sau:
+ Số thuế ghi thu trong số thuế được duyệt.
+ Số thuế được giảm miễn (nếu có).
+ Số thuế đã nộp trong năm.
+ Tổng hợp từ sổ theo dõi thu thế và đối chiếu với biên lai thu thuế; từ đó xác định số thuế nộp đủ, nộp thừa hoặc thiếu của từng hộ nộp thuế và tổng hợp quyết toán kết quả thu thuế của xã.
- Ở cấp huyện
Chi cục thuế kiểm tra xét duyệt quyết toán kết quả thu thuế của các xã trong huyện và tổng hợp quyết toán kết quả thu thuế chung toàn huyện, báo cáo Uỷ ban nhân dân huyện trình Uỷ ban nhân dân tỉnh và Cục thuế tỉnh kiểm tra xét duyệt.
- Ở cấp tỉnh
Cục thuế tổ chức kiểm tra xét duyệt quyết toán kết quả thu thuế của các huyện; tổng hợp quyết toán của tỉnh bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau:
+ Số thuế ghi thu theo sổ thuế.
+ Số thuế thừa, thiếu năm trước chuyển sang (nếu có).
+ Số thuế được giảm miễn (nếu có).
+ Số thuế đã thu; số thuế đã thanh toán nộp vào Kho bạc Nhà nước.
Quyết toán của tỉnh sau khi được Uỷ ban nhân dân tỉnh duyệt, thì gửi báo cáo Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế).
Lưu ý: Tổng cục Thuế thường xuyên hoặc định kỳ kiểm tra việc quyết toán kết quả thu thuế của các địa phương.
Căn cứ vào Điều 5 Mục Mục IV Thông tư số 89-TC/TCT ngày 09/11/1993, việc tạm thu thuế sử dụng đất nông nghiệp được quy định như sau:
“IV
5. việc tạm thu thuế năm 1994 chi thực hiện đối với những địa phương mà bước vào vụ thu thuế đầu tiên của năm thuế 1994 chưa lập xong sổ thuế sử dụng đất nông nghiệp. Việc tạm thu phải dựa vào sổ thuế nông nghiệp năm 1993; đồng thời điều chỉnh số thuế phù hợp với sự biến động về diện tích đất chịu thuế. Đến vụ cuối cùng của năm thuế phải thu theo sổ thuế sử dụng đất nông nghiệp mới và cuối năm thanh quyết toán theo sổ thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1994; nếu thu thừa thì chuyển sang năm sau, nếu thiếu thì năm sau truy thu.”
Như vậy, tạm thu thuế chỉ áp dụng đối với những địa phương bước vào vụ mùa đầu tiên và chưa lập xong sổ thuế sử dụng đất nông nghiệp. Trong các vụ mùa tiếp sau không được áp dụng tạm thu nữa. Số tiền thuế đã tạm nộp sẽ căn cứ vào sổ thuế để xem xét đã nộp đủ hay chưa, sẽ được chuyển tiền thừa vào năm thuế sau hay bị truy thu tiền nộp thuế. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hộ sử dụng đất nông nghiệp vì năm đầu họ chưa quen với các thủ tục về thuế cũng như chưa kịp hoàn thành sổ thuế.
Trên đây là quy định về việc tạm nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp và quyết toán thuế cuối năm để nộp về ngân sách Nhà nước.
Xem thêm: Tổng hợp bài viết về thuế đối với đất đai
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh