2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm của người có hành vi vi phạm, có lỗi trong việc gây thiệt hại về vật chất, tinh thần phải bồi hoàn cho người bị thiệt hại nhằm phục hồi tình trạng tài sản, bù đắp tổn thất tinh thần cho người bị thiệt hại. Trong hợp đồng thương mại, bồi thường thiệt hại là một chế tài trong thương mại dù các bên không có thỏa thuận nhưng vẫn có thể áp dụng nếu đáp ứng các điều kiện nhất định.
Bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù các tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất về vật chất thực tế, được tính thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút. Tại Khoản 1 Điều 302 Luật Thương mại 2005 quy định về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng như sau:
“Điều 302. Bồi thường thiệt hại
1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.”
Mục đích của việc trả tiền bồi thường là để bù đắp cho bên bị vi phạm và bị thiệt hại, chứ không phải để trừng phạt bên vi phạm trong quan hệ hợp đồng. Xuất phát từ quan điểm không thể để bên bị vi phạm bị tổn thất về vật chất khi bên kia vi phạm nghĩa vụ hợp đông, chế tài bồi thường thiệt hại bằng tiền cần được áp dụng sao cho bên bị vi phạm được hưởng những gì họ đáng ra được hưởng nếu hợp đồng không bị vi phạm.
Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại được coi là nghĩa vụ mới của bên vi phạm thay thế cho nghĩa vụ không được thực hiện hoặc bổ sung cho nghĩa vụ không được thực hiện đúng, vấn đề bồi thường thiệt hại chỉ đặt ra khi bên bị vi phạm có thiệt hại thực tế. Vì thế, mức bồi thường phải được tính toán đầy đủ, bao gồm tổn thất thực tế mà bên bị vi phạm gánh chịu do hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia và khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ mà bên bị vi phạm có thể nhận được nếu bên kia thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Do mang tính bù đắp nên số tiền phải bồi thường không thể vượt quá số tiền thiệt hại thực tế. Đây là nguyên tắc xác định mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đông, từ đó hạn chế mức bồi thường không lớn hon mức thiệt hại của bên bị vi phạm.
Tại Khoản 2 Điều 302 Luật Thương mại 2005 quy định giá trị bồi thường thiệt hại như sau:
“2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.”
Luật Thương Mại 2005 cũng không quy định chi tiết hơn về cách xác định tổn thất trực tiếp. Bộ Luật Dân Sự 2015 liệt kê các thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ/hợp đồng, mà có thể sử dụng để xác định loại tổn thất này, bao gồm:
+ Thiệt hại về vật chất, là tổn thất thực tế mà có thể xác định được, bao gồm tổn thất về tài sản; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế hay khắc phục thiệt hại; và thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
+ Tổn thất và thiệt hại liên quan đến các lợi ích từ hợp đồng mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng;
+ Bất cứ chi phí nào phát sinh từ việc bên vi phạm không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng mà không phải là tổn thất và thiệt hại liên quan đến các lợi ích từ hợp đồng mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nói trên.
Kể cả khi đã áp dụng các chế tài khác, bên bị vi phạm vẫn không bị mất quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tổn thất do vi phạm hợp đồng của bên kia (theo Điều 316 Luật Thương mại năm 2005).
Bồi thường thiệt hại có thể có những hình thức khác nhau: bù đắp những thiệt hại phát sinh từ hành vi vi phạm hợp đồng gồm tổn thất thực tế và khoản lợi bị bỏ lỡ; hoặc đền bù thiệt hại cho việc thanh toán chậm, nếu vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Về nguyên tắc, chậm thanh toán có thể gây nên tổn thất thực tế, ví dụ: do được thanh toán chậm nên phải vay ngân hàng trong thời gian chưa được thanh toán. Nhưng nhiều trường họp một bên vi phạm nghĩa vụ thanh toán nhưng bên kia không thể chứng minh tổn thất nên không đòi bồi thường thiệt hại được. Để ngăn ngừa tình huống này, tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 đã quy định như sau:
“Điều 306. Quyền yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán
Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Tuy nhiên, trên thực tế việc xác định lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán là không đơn giản và còn gây nhiều tranh cãi.
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Luật Thương mại 2005
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh