2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
- Luật Cạnh tranh năm 2018.
Thủ tục tố tụng cạnh tranh bao gồm 3 giai đoạn cơ bản, đó là điều tra vụ việc cạnh tranh, xử lý vụ việc cạnh tranh và giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Điều tra vụ việc cạnh tranh là giai đoạn khởi đầu trong tố tụng cạnh tranh, theo đó Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh áp dụng các nghiệp vụ cần thiết để xác định hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh và đối tượng thực hiện hành vi làm cơ sở cho việc xử lý vụ việc cạnh tranh.
- Điều tra vụ việc cạnh tranh được khởi đầu bằng quyết định điều tra dựa trên thông tin về hành vi vi phạm hoặc khiếu nại vụ việc cạnh tranh và kết thúc bằng đình chỉ điều tra hoặc bằng báo cáo, kết luận điều tra.
- Quyết định điều tra vụ việc cạnh tranh của Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh dựa vào một trong các căn cứ:
+ Thứ nhất, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia thụ lí hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh. Tổ chức, cá nhân cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại do hành vi vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh có quyền thực hiện khiếu nại vụ việc cạnh tranh đến Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia. Hồ sơ khiếu nại bao gồm: Đơn khiếu nại theo mẫu do Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia ban hành; Chứng cứ để chứng minh các nội dung khiếu nại có căn cứ và hợp pháp; Các thông tin, chứng cứ liên quan khác mà bên khiếu nại cho rằng cần thiết để giải quyết vụ việc.
+ Thứ hai, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh. Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh có thể quyết định tiến hành điều tra vụ việc cạnh tranh khi Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh mà không cần phải có khiếu nại của bất kì tổ chức, cá nhân nào. Thời hiệu để Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh ra quyết định điều tra trong trường hợp này là ba năm kể từ ngày hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh được thực hiện.
Trước hết, đình chỉ điều tra là một trong hai hình thức kết thúc hoạt động điều tra, mà nội dung của nó là dựa trên những lý do và căn cứ nhất định chấm dứt mọi hoạt động nhằm phát hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá những thông tin dùng làm chứng cứ để giải quyết vụ việc cạnh tranh. Đình chỉ điều tra được áp dụng khi quá trình điều tra vụ việc mà dù chưa đi đến chứng minh một cách có chắc chắn rằng vụ việc xảy ra, không có đủ những dấu hiệu để nói lên rằng đã vi phạm pháp luật cạnh tranh. Khác với tạm đình chỉ điều tra, việc dừng các hoạt động điểu tra ở đây không có ý nghĩa tạm thời mà là kết thúc hoạt động điều tra. Căn cứ theo Điều 86 của Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định về đình chỉ điều tra thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh ra quyết định đình chỉ điều tra vụ việc cạnh tranh trong các trường hợp sau đây:
- Trong quá trình điều tra không thể thu thập chứng cứ để chứng minh được hành vi vi phạm theo quy định của Luật Cạnh tranh. Chứng cứ được hiểu là những gì có thật, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, doanh nghiệp có hành vi vi phạm và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ việc cạnh tranh. Do đó, không có chứng cứ thì không thể chứng minh được hành vi đó vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh.
- Bên khiếu nại rút hồ sơ khiếu nại và bên bị điều tra cam kết chấm dứt hành vi bị điều tra, cam kết thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả và được Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh chấp thuận. Bên khiếu nại có quyền rút hồ sơ khiếu nại (căn cứ vào Điều 78 của Luật Cạnh tranh) trong thời hạn xem xét hồ sơ khiếu nại và dựa vào yêu cầu này Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia dừng xem xét hồ sơ khiếu nại, nhưng bên bị điều tra cũng cam kết chấm dứt hành vi bị điều tra, cam kết thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả và được Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh chấp thuận. Như vậy, đồng nghĩa với việc điều tra vụ việc cạnh tranh sẽ không còn ý nghĩa nữa, Thủ trưởng cơ quan điều tra sẽ ra quyết định đình chỉ điều tra vụ việc.
- Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh ra quyết định thực hiện điều tra trong trường hợp Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh trong thời hạn 03 năm kể từ ngày hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh được thực hiện (Khoản 2 Điều 80 của Luật Cạnh tranh). Khi thực hiện điều tra trong trường hợp này mà bên bị điều tra cam kết chấm dứt hành vi bị điều tra, cam kết thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả và được Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh chấp thuận thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh sẽ ra quyết định đình chỉ điều tra vụ việc đó.
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Luật Cạnh tranh năm 2018
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh