2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là sự chạy đua kinh tế mà ở đó các doanh nghiệp tham gia “cuộc đua” này đòi hỏi phải có sức mạnh và kỹ năng nếu không sẽ dễ dàng bị các đối thủ loại bỏ. Doanh nghiệp phải luôn cố gắng giành sự quan tâm của khách hàng bằng việc chiếm ưu thế về thị phần trên thị trường liên quan, kéo theo đó những hành vi hạn chế cạnh tranh ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó, cạnh tranh là hệ quả tất yếu của nền kinh tế thị trường và là nhân tố quan trọng tác động đến sự phát triển của nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển luôn tìm mọi cách để giành sự quan tâm của khách hàng với doanh nghiệp của mình bằng việc chiếm ưu thế về thị phần trên thị trường liên quan. Do vậy, để duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh tế pháp luật hiện hành đã có nhiều quy định trong việc xử lý các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh.
Khái niệm “vị trí thống lĩnh thị trường” thường được dùng để chỉ vị trí của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp trên thị trường liên quan mà nhờ vào vị trí ấy, doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có khả năng quyết định các điều kiện giao dịch trên thị trường độc lập với các đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng ở mức độ đáng kể. Theo quan niệm pháp luật cạnh tranh các nước, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh là doanh nghiệp có khả năng thoát khỏi cạnh tranh, không chịu sự ràng buộc của thị trường và đóng vai trò chủ đạo trên thị trường đó do doanh nghiệp có quyền lực thị trường, tự làm luật trên thị trường mà chúng hoạt động. Theo Ủy ban châu Âu, “vị trí thống lĩnh thị trường” là mức độ tự do ý chí của doanh nghiệp trong việc ấn định giá và các điều kiện giao dịch khác trên thị trường mà không bị kiềm chế bởi áp lực cạnh tranh. Để có được mức độ tự do ấy, yếu tố về thị phần, lượng vốn và việc sở hữu công nghệ của doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng.
Tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam không giải thích khái niệm thế nào là “vị trí thống lĩnh thị trường” mà thay vào đó, chỉ quy định rõ trong trường hợp nào thì một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường.
Căn cứ vào Điều 24 của Luật Cạnh tranh năm 2018, doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có sức mạnh thị trường đáng kể hoặc có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan. Cụ thể:
“Điều 24. Doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
1. Doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có sức mạnh thị trường đáng kể được xác định theo quy định tại Điều 26 của Luật này hoặc có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan.
2. Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động gây tác động hạn chế cạnh tranh và có sức mạnh thị trường đáng kể được xác định theo quy định tại Điều 26 của Luật này hoặc có tổng thị phần thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan;
b) Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan;
c) Bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan;
d) Năm doanh nghiệp trở lên có tổng thị phần từ 85% trở lên trên thị trường liên quan.
3. Nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường quy định tại khoản 2 Điều này không bao gồm doanh nghiệp có thị phần ít hơn 10% trên thị trường liên quan.”
Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam không đưa ra định nghĩa về vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp mà chỉ quy định các trường hợp có vị trí thống lĩnh và các căn cứ để xác định vị trí thống lĩnh. Theo quy định trên, doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh khi thuộc một trong những trường hợp sau:
Sức mạnh thị trường đáng kể của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp được xác định căn cứ vào một số yếu tố sau đây:
+ Tương quan thị phần giữa các doanh nghiệp trên thị trường liên quan;
+ Sức mạnh tài chính, quy mô của doanh nghiệp;
+ Rào cản gia nhập, mở rộng thị trường đối với doanh nghiệp khác;
+ Khả năng nắm giữ, tiếp cận, kiểm soát thị trường phân phối, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ hoặc nguồn cung hàng hóa, dịch vụ;
+ Lợi thế về công nghệ, hạ tầng kỹ thuật;
+ Quyền sở hữu, nắm giữ, tiếp cận cơ sở hạ tầng;
+ Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ;
+ Khả năng chuyển sang nguồn cung hoặc cầu đối với các hàng hóa, dịch vụ liên quan khác;
+ Các yếu tố đặc thù trong ngành, lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh.
Đây là điểm mới của Luật Cạnh tranh năm 2018 so với Luật Cạnh tranh năm 2004 khi Luật Cạnh tranh năm 2004 chỉ quy định doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Như vậy, dựa theo quy định luật cạnh tranh mới, sức mạnh thị trường đáng kể của doanh nghiệp phải là chứng minh thực tế mà không phải là suy đoán.
Trong trường hợp này, pháp luật đã hoàn toàn dựa vào thị phần để xác định vị trí thống lĩnh thị trường. Khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định:
“Căn cứ vào đặc điểm, tính chất của thị trường liên quan, thị phần của doanh nghiệp trên thị trường liên quan được xác định theo một trong các phương pháp sau đây:
+ Tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu bán ra của tất cả các doanh nghiệp trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm;
+ Tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh nghiệp trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm;
+ Tỷ lệ phần trăm giữa số đơn vị hàng hóa, dịch vụ bán ra của doanh nghiệp này với tổng số đơn vị hàng hóa, dịch vụ bán ra của tất cả các doanh nghiệp trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm;
+ Tỷ lệ phần trăm giữa số đơn vị hàng hóa, dịch vụ mua vào của doanh nghiệp này với tổng số đơn vị hàng hóa, dịch vụ mua vào của tất cả các doanh nghiệp trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm.”
Pháp luật cạnh tranh Việt Nam cũng có quan điểm về vị trí thống lĩnh thị trường giống các quốc gia khác là khả năng của doanh nghiệp có thể chi phối giá, chi phối các yếu tố cơ bản của thị trường. Tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh Việt Nam vẫn sử dụng tiêu chí thị phần để xác định vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp; bởi đây là tiêu chí mang tính chất định lượng, dễ xác định.
Theo Khoản 2 Điều 11 của Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường đó là:
Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan;
+ Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan;
+ Bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan.
Nếu như Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định các nhóm doanh nghiệp trên được coi là nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thì Luật Cạnh tranh năm 2018 đã bổ sung thêm một trường hợp nữa là “Năm doanh nghiệp trở lên có tổng thị phần từ 85% trở lên trên thị trường liên quan”. Thêm vào đó, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường theo quy định trên không bao gồm doanh nghiệp có thị phần ít hơn 10% trên thị trường liên quan.
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Luật Cạnh tranh năm 2018
Luật Hoàng Anh
Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói
Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:
2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
2
Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam
8
Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng
10
Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi
10
Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).
15
Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;
20
Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)
20
Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)
30
Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình
300
Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…
500
Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế
700
Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…
2000
Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước
3000
Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh