2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên có thể gặp phải những điều kiện, hoàn cảnh gây bất lợi cho việc thực hiện hợp đồng giữa các bên. Trong những trường hợp đó, việc thực hiện hợp đồng sẽ bị ảnh hưởng, vậy pháp luật có quy định như thế nào trong những trường hợp được gọi là bất khả kháng.
Tại Khoản 1 Điều 156 Bộ luật dân sự 2015 định nghĩa về sự kiện bất khả kháng và trở ngại khách quan như sau:
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ của mình.
Theo định nghĩa trên, một sự kiện được xem sự kiện bất khả kháng nếu hội tụ đủ 03 yếu tố: (i) khách quan, (ii) không thể lường trước, và (iii) không thể khắc phục. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự 2015 không quy định tiêu chí xác định cụ thể cho từng yếu tố, việc đánh giá một sự kiện có hội tụ các yếu tố của một sự kiện bất khả kháng hay không phụ thuộc vào quan điểm của cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp (Tòa án hoặc Trọng tài Thương mại) khi có tranh chấp xảy ra.
Một số văn bản pháp luật trong một số lĩnh vực có quy định ví dụ các trường hợp cụ thể được xem sự kiện bất khả kháng gồm: (i) các sự kiện tự nhiên (như động đất, bão, lũ, lụt, sóng thần, hỏa hoạn, địch họa, 1…) và (ii) các sự kiện do con người tạo nên (như bạo động, nổi loạn, chiến sự, chống đối, phá hoại, cấm vận, bao vây, phong tỏa, bất cứ hành động chiến tranh nào hoặc hành động thù địch cộng đồng cho dù chiến tranh có được tuyên bố hay không 2…).
Hậu quả của sự kiện bất khả kháng chính là làm cho bên bị ảnh hưởng không thể thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Tại Khoản 2 Điều 351 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “2. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Tại Điều 296 Luật Thương mại 2005 quy định về việc kéo dài thời hạn, từ chối thực hiện hợp đồng trong trường hợp bất khả kháng như sau:
+ Trong trường hợp bất khả kháng, các bên có thể thoả thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; nếu các bên không có thoả thuận hoặc không thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một thời gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc phục hậu quả, nhưng không được kéo dài quá các thời hạn sau đây:
- Năm tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thoả thuận không quá mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng;
- Tám tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thoả thuận trên mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng.
+ Trường hợp kéo dài quá các thời hạn theo quy định như trên, các bên có quyền từ chối thực hiện hợp đồng và không bên nào có quyền yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại.
+ Trường hợp từ chối thực hiện hợp đồng thì trong thời hạn không quá mười ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn theo quy định như trên, bên từ chối phải thông báo cho bên kia biết trước khi bên kia bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng.
+ Việc kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng không áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có thời hạn cố định về giao hàng hoặc hoàn thành dịch vụ.
Như vậy, trong trường hợp bất khả kháng, các bên có thể thỏa thuận kéo dài hợp đồng, nếu trong trường hợp không thỏa thuận được thì thời gian thực hiện nghĩa vụ được tính thêm sẽ bằng thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng cộng với một khoảng thời gian hợp lý nhưng sẽ không quá khoảng thời gian như điều luật trên quy định. Sau khoảng thời gian này, nêu bên vi phạm không thực hiện nghĩa vụ hợp động thì bên bị vi phạm có thể từ chối thực hiện hợp đồng và từ đó dẫn đến việc chấm dứt hợp đồng.
Tuy nhiên, theo Khoản 4 Điều 296 Luật Thương mại 2005, nếu các dịch vụ có thời gian hoàn thành là thời gian cố định thì việc kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng không được áp dụng. Thời gian hoàn thành chỉ có thể trong thời gian cố định đã quy định trong hợp đồng có thể hiểu là sau khoảng thời gian đó nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia sẽ không thể đạt được mục đích như đã giao kết trong hợp đồng. Vì vậy, sau khoảng thời gian cố định này một bên không thực hiện nghĩa vụ trong khoảng thời gian cố định đó thì bên kia có thể chấm dứt hợp đồng.
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Luật Thương mại 2005
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh