2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) tuân thủ pháp luật về căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định như sau:
“Điều 326. Căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
1. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
a) Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;
b) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;
c) Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
2. Người có thẩm quyền kháng nghị quy định tại Điều 331 của Bộ luật này kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này và có đơn đề nghị theo quy định tại Điều 328 của Bộ luật này hoặc có thông báo, kiến nghị theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 327 của Bộ luật này; trường hợp xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba thì không cần phải có đơn đề nghị.”
Bản án là một văn bản tố tụng do Thẩm phán, Hội thẩm nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành để ghi nhận phán quyết của Tòa án sau khi xét xử một vụ án.
Quyết định là văn bản được ban hành trong trường hợp công bố một sự kiện hoặc giải quyết một vấn đề, một yêu cầu cụ thể nào đó. Quyết định mang tính cá biệt, chỉ áp dụng đối với một hoặc một số cá nhân hoặc trong một trường hợp cụ thể: Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định đình chỉ vụ án, Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Quyết định tuyên bố 1 người mất tích, Quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự.
Đây là những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án được nhà làm luật quy định là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Theo đó, Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
Thứ nhất, Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Trường hợp này là trường hợp Tòa án không xem xét, đánh giá toàn diện các tài liệu, chứng cứ được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được; không căn cứ vào tài liệu, chứng cứ được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa dẫn đến kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ phản ánh sự thật khách quan của vụ án, làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích chính đáng của đương sự, có thể gây thiệt hại cho họ về vật chất, tinh thần.
Ví dụ 7: Trong vụ án tranh chấp về di sản thừa kế, đương sự xuất trình di chúc hợp pháp của người để lại di sản thừa kế nhưng Tòa án nhận định di chúc đó không hợp pháp và giải quyết chia di sản thừa kế theo pháp luật.
Việc xác định sự thật khách quan của vụ án là nhiệm vụ hàng đầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Trên cơ sở chứng cứ mà các đương sự đã có nghĩa vụ cung cấp. Tòa án phải đưa ra kết luận làm căn cứ cho việc xét xử.Vì vậy các kết luận trong bản án quyết định phải phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Nếu trong quá trình đánh giá chứng cứ người tiến hành tố tụng cố tình đánh giá sai lệch chứng cứ sử dụng các chứng cứ không liên quan đến vụ án hoặc sử dụng các chứng cứ không phản ánh sự thật khách quan của vụ án để đưa ra kết luận, thì kết luận này là sai lầm và bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật sẽ bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Thứ hai, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Xác định không đúng hoặc không đầy đủ tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng dẫn đến họ không thực hiện được các quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình;
+ Không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vào tham gia tố tụng dẫn đến xâm phạm nghiêm trọng quyền, lợi ích hợp pháp của họ;
+ Nhập hoặc tách vụ án không đúng quy định tại Điều 42 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
+ Không cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng cho đương sự, những người tham gia tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật dẫn đến xâm phạm nghiêm trọng quyền, lợi ích hợp pháp của họ;
+ Không có người phiên dịch trong trường hợp người tham gia tố tụng dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình hoặc người tham gia tố tụng khuyết tật nghe, nói;
+ Không từ chối tiến hành, tham gia tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong trường hợp quy định tại các điều 52, 53, 54, 60, khoản 2 Điều 80, khoản 2 Điều 82 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
+ Việc thu thập tài liệu, chứng cứ để chứng minh đối với vụ án không đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
+ Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
Thứ ba, Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Đây là trường hợp Tòa án áp dụng không đúng quy định của pháp luật để giải quyết vụ án dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
Ví dụ: Ngày 01-01-2019, ông A vay 1.000.000.000 đồng của bà B với lãi suất 30%/năm, thời hạn vay là 01 năm. Đến hạn trả nợ, ông A không trả được nợ gốc và lãi nên bà B khởi kiện tại Tòa án, yêu cầu ông A trả nợ gốc và lãi trong hạn với mức lãi suất 30%/năm, lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả. Toà án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã giải quyết chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Việc giải quyết của Tòa án như trên là có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật, vì theo quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự thì “Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay… Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
Người có thẩm quyền kháng nghị quy định tại Điều 331 của BLTTDS 2015 kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 326 BLTTDS 2015 và có đơn đề nghị theo quy định tại Điều 328 của BLTTDS 2015 bao gồm: Ngày, tháng, năm làm đơn đề nghị; Tên, địa chỉ của người đề nghị; Tên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm; Lý do đề nghị, yêu cầu của người đề nghị; Người đề nghị là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; người đề nghị là cơ quan, tổ chức thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; trường hợp tổ chức đề nghị là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu được thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp. Kèm theo đơn đề nghị, người đề nghị phải gửi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tài liệu, chứng cứ (nếu có) để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. hoặc có thông báo, kiến nghị theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 327 của BLTTDS 2015 ; trường hợp xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba thì không cần phải có đơn đề nghị.
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh