2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
Căn cứ Điều 390 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) tuân thủ pháp luật về việc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích được quy định như sau:
“Điều 390. Hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích
1. Người bị Tòa án tuyên bố mất tích trở về hoặc người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích, trong đó phải quyết định về hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích theo quy định của Bộ luật dân sự.”
Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích. Nhưng tuy nhiên quyết định tuyên bố một người mất tích của Tòa án có thể được hủy bỏ trong trường hợp người bị mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống. Pháp luật quy định những người có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích gồm:
- Bản thân người bị tuyên bố mất tích;
- Người có quyền, lợi ích liên quan: là người tuy không yêu cầu giải quyết việc dân sự nhưng việc giải quyết việc dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc đương sự trong việc dân sự đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Như vậy, khi người bị tuyên bố mất tích trở về thì họ có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích mà Tòa án tuyên trước đó đối với họ. Trong trường hợp người bị tuyên bố mất tích không trở về những có tin tức xác thực là người đó còn sống thì những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích đã được Tòa án tuyên trước đó.
Khi người bị tuyên bố mất tích trở về và có yêu cầu hoặc người có quyền, lợi ích liên quan có yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích thì người yêu cầu đó phải có đơn yêu cầu gửi đến Tòa án. Nội dung đơn yêu cầu phải bao gồm các nội dung:
+ Ngày, tháng, năm làm đơn;
+ Tên Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc dân sự;
+ Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người yêu cầu;
+ Những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết và lý do, mục đích, căn cứ của việc yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự đó;
+ Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến việc giải quyết việc dân sự đó (nếu có);
+ Các thông tin khác mà người yêu cầu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết yêu cầu của mình;
+ Người yêu cầu là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ, nếu là cơ quan, tổ chức thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; trường hợp tổ chức yêu cầu là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu được thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp.
Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu phải gửi tài liệu, chứng cứ để chứng minh người bị tuyên bố mất tích đã trở về hoặc có chứng cứ để chứng minh xác thực là người đó còn sống. Phải có căn cứ chính xác thì Tòa án mới có thể hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích.
Và khi mở phiên họp xét đơn yêu cầu thì Tòa án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu tùy thuộc vào tính chính xác của sự việc, trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích, trong đó phải quyết định về hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích theo quy định của BLDS 2015.
Hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích đã được quy định tại khoản 2, 3 Điều 70 BLDS 2015. Theo đó, khi người bị tuyên bố mất tích trở về được nhận lại tài sản do người quản lý tài sản chuyển giao sau khi đã thanh toán chi phí quản lý. Bởi vì, người quản lý tài sản đã có công quản lý trông nom tài sản của người bị tuyên bố mất tích vì thế nên khi người này trở về thì phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán chi phí quản lý tài sản cho người quản lý đó.
Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích đã được ly hôn thì dù người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống, quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Quy định này nhằm đảm bảo pháp lý của những quan hệ pháp lý đã phát sinh sau khi có quyết định ly hôn. Nhiều trường hợp sau khi có quyết định ly hôn thì người vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích đã kết hôn với người khác. Như vậy, pháp luật cần bảo vệ quan hệ pháp luật đã phát sinh và có hiệu lực sau đó. Điều này cũng nhằm bảo đảm thi hành và ý nghĩa pháp lý cũng như ý nghĩa thực tiễn của Luật hôn nhân gia đình 2014.
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh