2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Căn cứ Điều 327 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) tuân thủ pháp luật về việc phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định như sau:
“Điều 327. Phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm
1. Trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đó thì đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với người có thẩm quyền kháng nghị quy định tại Điều 331 của Bộ luật này để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
2. Trường hợp Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì phải thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị quy định tại Điều 331 của Bộ luật này.
3. Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao hoặc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 326 của Bộ luật này.”
Bản án là một văn bản tố tụng do Thẩm phán, Hội thẩm nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành để ghi nhận phán quyết của Tòa án sau khi xét xử một vụ án.
Quyết định là văn bản được ban hành trong trường hợp công bố một sự kiện hoặc giải quyết một vấn đề, một yêu cầu cụ thể nào đó. Quyết định mang tính cá biệt, chỉ áp dụng đối với một hoặc một số cá nhân hoặc trong một trường hợp cụ thể: Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định đình chỉ vụ án, Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Quyết định tuyên bố 1 người mất tích, Quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự.
Để đảm bảo tính ổn định của bản án, quyết định của Tòa án và việc xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm được tốt, sớm sửa chữa được những sai lầm, vi phạm pháp luật của Tòa án trong việc giải quyết vụ án, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Ở đây “Vi phạm pháp luật” được hiểu là hành vi trái luật mang tính có lỗi của chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý xâm hại tới quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, căn cứ vào lĩnh vực điều chỉnh của pháp luật thì vi phạm pháp luật sẽ được phân loại”. Đương sự có quyền gửi đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đến người có thẩm quyền kháng nghị trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Người có thẩm quyền kháng nghị được quy định cụ thể tại Điều 331 BLTTDS 2015 bao gồm: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.
Ngày gửi đơn đề nghị của đương sự là ngày đương sự nộp đơn trực tiếp tại Tòa án, Viện kiểm sát, ngày có dấu dịch vụ bưu chính nơi gửi hoặc ngày gửi đơn đề nghị bằng phương tiện điện tử.
Trong trường hợp Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì phải thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị quy định tại Điều 331 BLTTDS 2015 bao gồm: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao. Và “Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác” quy định tại khoản 2 Điều 327 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 bao gồm:
+ Lãnh đạo Đảng, Nhà nước;
+ Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Văn phòng Quốc hội và các Ủy ban của Quốc hội, Ban dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội;
+ Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
+ Văn phòng Trung ương Đảng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Nội chính Trung ương, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Ban Tiếp công dân Trung ương;
+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là đương sự trong vụ án cho rằng họ có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhưng không được Tòa án đưa vào tham gia tố tụng và cho rằng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ;
+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân đã khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước quy định tại Điều 187 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức công tác kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện; kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án mình, Tòa án nhân dân cấp cao nếu phát hiện có căn cứ:
+ Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;
+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;
+ Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định của Tòa án mình nếu phát hiện có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 326 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh