2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
Căn cứ Điều 268 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) tuân thủ pháp luật về sửa chữa, bổ sung bản án được quy định như sau:
“Điều 268. Sửa chữa, bổ sung bản án
1. Sau khi tuyên án xong thì không được sửa chữa, bổ sung bản án, trừ trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai.
2. Trường hợp cần sửa chữa, bổ sung bản án theo quy định tại khoản 1 Điều này thì Thẩm phán phối hợp với các Hội thẩm nhân dân là thành viên Hội đồng xét xử đã tuyên bản án đó phải ra quyết định sửa chữa, bổ sung bản án và gửi ngay cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp và cơ quan thi hành án dân sự nếu bản án đã được gửi cho cơ quan thi hành án dân sự.
Trường hợp Thẩm phán đã xét xử vụ án đó không còn đảm nhiệm chức vụ Thẩm phán tại Tòa án đã ra bản án đó thì Chánh án Tòa án thực hiện việc sửa chữa, bổ sung bản án.”
Bản án là văn bản ghi nhận phán quyết của Tòa án sau quá trình xét xử một vụ án. Bản án đánh dấu sự kết thúc toàn bộ quá trình điều tra, xét xử do vậy nội dung bản án phản ánh những kết quả của phiên tòa và ý kiến phân tích, đánh giá và quyết định của hội đồng xét xử việc chấp nhận hay không chấp nhận, cho hưởng hoặc không cho hưởng một quyền nào đó của đương sự, buộc đương sự thực hiện các nghĩa vụ nếu các đương sự không thỏa thuận được toàn bộ vấn đề của vụ án.
Sau phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán và Thư ký phiên tòa phải kiểm tra lại bản án, biên bản phiên tòa để khắc phục ngay những sai sót của bản án đã tuyên hoặc sai sót trong việc ghi biên bản phiên tòa. Tuy nhiên, việc sửa chữa, bổ sung bản án phải tuân theo đúng quy định tại Điều 268 của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015. Theo đó:
- “Sửa chữa là khắc phục những lỗi, những sai sót”, như vậy, khi có những sai sót, những lỗi trong Bản án, quyết định thì sẽ tiến hành sửa chữa, tuy nhiên việc sửa chữa những sai sót, lỗi đó không làm thay đổi bản chất vụ án và không gây bất lợi cho các đương sự.
- Bổ sung bản án là từ những thiếu sót, lỗi bất cập trong bản án thì sẽ chỉnh sửa, bổ sung ý kiến, thêm vào cho bản án đầy đủ hơn.
Quy định này nhằm đảm bảo tính chính xác của bản án và trách nhiệm của Thẩm phán, Hội đồng xét xử đối với bản án đã tuyên, tránh những sửa chữa, bổ sung tùy tiện làm ảnh hưởng đến bản chất của vụ án. Chỉ được sửa chữa, bổ sung bản án trong các trường hợp:
+ Phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả như: lỗi do viết không đúng từ ngữ, dấu, chữ viết hoa, viết thường, phiên âm tiếng nước ngoài sang Tiếng việt, bỏ sót không ghi tên đệm trong họ, tên của đương sự;
+ Số liệu do nhầm lẫn hoặc do tính toán sai (kể cả án phí) như: cộng, trừ, nhân chia sai mà phải sửa lại cho đúng.
Việc sửa chữa, bổ sung bản án cũng có thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, do vậy, thay vì trước đây khi sửa chữa bổ sung bản án thì Tòa án phải gửi về việc sửa chữa, bổ sung bản án thì nay BLTTDS 2015 quy định trường hợp cần sửa chữa, bổ sung bản án theo quy định thì Thẩm phán phối hợp với các Hội thẩm nhân dân là thành viên Hội đồng xét xử đã tuyên bản án đó phải ra quyết định sửa chữa, bổ sung bản án và gửi ngay cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp và cơ quan thi hành án dân sự nếu bản án đã được gửi cho cơ quan thi hành án dân sự. Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trường hợp Thẩm phán đã xét xử vụ án đó không còn đảm nhiệm chức vụ Thẩm phán tại Tòa án đã ra bản án đó thì Chánh án Tòa án thực hiện việc sửa chữa, bổ sung bản án.
Ngoài ra, sửa chữa, bổ sung bản án còn được quy định tại Điều 38 nghị quyết Số: 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12 năm 2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, quy định như sau:
“Điều 38. Sửa chữa, bổ sung bản án quy định tại Điều 240 của BLTTDS
1. Chỉ được sửa chữa, bổ sung bản án trong các trường hợp sau đây:
a) Phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả như: lỗi do viết không đúng từ ngữ, dấu, chữ viết hoa, viết thường, phiên âm tiếng nước ngoài sang tiếng Việt, bỏ sót không ghi tên đệm trong họ, tên của đương sự,…
b) Số liệu do nhầm lẫn hoặc do tính toán sai (kể cả án phí) như: cộng, trừ, nhân, chia sai,… mà phải sửa lại cho đúng.
2. Toà án phải gửi văn bản thông báo về việc sửa chữa, bổ sung bản án cho những người quy định tại khoản 1 Điều 240 của BLTTDS. Thông báo về việc sửa chữa, bổ sung bản án trình bày theo Mẫu số 15 ban hành kèm theo Nghị quyết này.”
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh