2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
- Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 (Luật Sở hữu trí tuệ 2005);
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ ngày 16 tháng 6 năm 2022 (Luật Sở hữu trí tuệ 2022);
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ ngày 19 tháng 6 năm 2009 (Luật sở hữu trí tuệ 2009);
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ ngày 14 tháng 6 năm 2019 (Luật sở hữu trí tuệ 2019);
- Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN hướng dẫn thi hành nghị định số 103/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp.
- Thông tư số 16/2016/TT-BKHCN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN hướng dẫn thi hành nghị định số 103/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp.
Hiện nay, các ĐƯQT đa phương liên quan đến lĩnh vực sở hữu công nghiệp mà Việt Nam tham gia như công ước Paris cũng như pháp luật sáng chế của nhiều quốc gia không đưa ra khái niệm về sáng chế thay vào đó chỉ xác định các tiêu chí để sáng chế được bảo hộ. Trong khi đó Việt Nam là một trong số các quốc gia đưa ra khái niệm sáng chế, khoản 12 điều 4 luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định: "Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên"
Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam đưa ra khái niệm sáng chế theo hướng tiếp cận từ bản chất kĩ thuật của sáng chế, theo đó sáng chế được hiểu là một giải pháp mới để giải quyết một vấn đề kĩ thuật. Sáng chế phải là sản phẩm hoặc quy trình do còn người tạo ra chứ không phải là những gì tồn tại trong tự nhiên con người phát hiện ra.
Theo đó, đối tượng bảo hộ sáng chế nhất thiết phải là một sản phẩm hoặc quy trình mới, do đó, một công dụng mới hay cách thức sử dụng mới của một sản phẩm được biết đến sẽ không đáp ứng điều kiện bảo hộ dưới danh nghĩa sáng chế. Một yêu cầu đối với sáng chế là giải pháp kỹ thuật đó là sáng chế phải giải quyết được một vấn đề kĩ thuật cụ thể bằng việc áp dụng các quy luật tự nhiên. Quy luật tự nhiên là những quy luật khoa học của tự nhiên được khám phá thông qua thực nghiệm. Những ý tưởng hoặc ý đồ chỉ nêu vấn đề mà không đưa ra cách giải quyết không phải là vẫn đề kĩ thuật hoặc không được giải quyết bằng cách thức kĩ thuật thì cũng không được coi là sáng chế. Những giải pháp không sử dụng các quy luật của tự nhiên mà áp dụng quy luật kinh tế, quy luật kinh doanh không phải là đối tượng được bảo hộ sáng chế.
Việc sáng chế được cấp văn bằng bảo hộ có thể đem lại những lợi ích như:
- Thể hiện tính độc quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với sáng chế của mình;
- Là căn cứ xác lập quyền đối với sáng chế, tránh tình trạng sáng chế bị sử dụng trái phép;
- Là căn cứ quan trọng để khởi kiện, khởi tố các hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế;
- Giúp tăng khả năng cạnh tranh và tạo ra sự tin tưởng trên thị trường.
Điều 58 Luật sở hữu trí tuệ quy định sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền sáng chế phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Thứ nhất, tính mới của sáng chế: Khoản 19 Điều 1 Luật sở hữu trí tuệ 2022 sửa đổi bổ sung khoản 1 Điều 60 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định: Sáng chế được coi là có tính mới nếu không thuộc một trong các trường hợp: bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên hoặc bị bộc lộ trong đơn đăng ký sáng chế khác có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn nhưng được công bố vào hoặc sau ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế đó.
- Thứ hai, trình độ sáng tạo của sáng chế: Đây là điều kiện có tính kiên quyết để xem xét sáng chế có được bảo hộ hay không. Điều 61 Luật sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 3 Điều 2 Luật sở hữu trí tuệ 2019 quy định sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên, sáng chế đó là một bước tiến sáng tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng.
- Thứ ba, có khả năng áp dụng công nghiệp: Đây có thể coi là điều kiện về tính hữu ích của sáng chế. Sáng chế không chỉ mang tính lý thuyết mà còn phải mang lại những lợi ích thực tiễn nhằm phục vụ những nhu cầu của cuộc sống. Áp dụng công nghiệp sáng chế là việc sản xuất, chế tạo hàng loạt sản phẩm hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy trình là nội dung của sáng chế và thu được kết quả ổn định.
Đối với sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu không phải là hiểu biết thông thường và đáp ứng các điều kiện sau:
- Có tính mới: được hiểu là chưa bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên.
- Có khả năng áp dụng công nghiệp: được hiểu là có thể thực hiện được việc chế tạo, sản xuất hàng loạt sản phẩm hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy trình là nội dung của sáng chế và thu được kết quả ổn định.
Cũng như pháp luật các nước, pháp luật Việt Nam quy định các đối tượng loại trừ không được bảo hộ sáng chế. Điều 8 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam khẳng định chính sách của Nhà nước ta là : "không bảo hộ các đối tượng SHTT trái với đạo đức xã hội , trật tự công công, hại cho quốc phòng an ninh" Điều 59 quy định các đối tượng không được bảo hộ sáng chế bao gồm:
- Phát minh, lý thuyết khoa học, phương pháp toán học: Con người chỉ có vai trò phát hiện, ra những phát minh và lý thuyết khoa học chứ không tạo ra nó. Các phát minh hay định luật khoa học không tạo ra cái mới phục vụ trực tiếp cho đời sống mà chỉ là phương tiện để con người dựa vào đó tạo ra các sản phẩm, giải pháp đáp ứng nhu cầu cuộc sống. Do vậy những phát minh, lý thuyết khoa học sẽ không được bảo hộ dưới danh nghĩa sáng chế.
- Sơ đồ, kế hoạch, quy tắc và phương pháp để thực hiện các hoạt động trí óc, huấn luyện vật nuôi, thực hiện trò chơi, kinh doanh; Cách thức thể hiện thông tin: Đây là những đối tượng mang tính chất tư duy của cá nhân, các phương pháp để thực hiện các hoạt động trí óc, huấn luyện vật nuôi, thực hiện trò chơi, kinh doanh không áp dụng quy luật tự nhiên, không thể thực hiện được việc chế tạo do đó các đối tượng này không đáp ứng được điều kiện bảo hộ sáng chế.
- Chương trình máy tính: ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam, chương trình máy tính được bảo hộ dưới danh nghĩa quyền tác giả.
- Giải pháp chỉ mang đặc tính thẩm mỹ: Những đối tượng này không thực hiện được chức năng kĩ thuật, sẽ không được bảo hộ là sáng chế mà thường bảo hộ alf quyền tác giả hoặc kiểu dáng công nghiệp.
+ Giống thực vật, giống động vật; Quy trình sản xuất thực vật, động vật chủ yếu mang bản chất sinh học mà không phải là quy trình vi sinh: Lý do chính để loại trừ các đối tượng này xuất phát từ việc bảo vệ trật tự công công và đạo đức xã hội.
+ Phương pháp phòng ngừa, chẩn đoán và chữa bệnh cho người và động vật. Dưới góc độ lợi ích công cộng, việc bảo vệ sáng chế cho Phương pháp phòng ngừa, chẩn đoán và chữa bệnh cho người và động vật sẽ cản trở khả năng phòng chống và chữa bệnh cho người và động vật.
Căn cứ theo quy định tại Điều 86 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi, bổ sung tại khoản 25 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ 2022 quy định về quyền đăng ký sáng chế như sau:
- Tổ chức, cá nhân sau đây có quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí:
+ Thứ nhất: tác giả tạo ra sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí bằng công sức và chi phí của mình.
+ Thứ hai: tổ chức, cá nhân đầu tư kinh phí, phương tiện vật chất cho tác giả dưới hình thức giao việc, thuê việc, tổ chức, cá nhân được giao quản lý nguồn gen cung cấp nguồn gen, tri thức truyền thống về nguồn gen theo hợp đồng tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc trường hợp quy định tại Điều 86a của Luật này.
- Trường hợp nhiều tổ chức, cá nhân cùng nhau tạo ra hoặc đầu tư để tạo ra sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí thì các tổ chức, cá nhân đó đều có quyền đăng ký và quyền đăng ký đó chỉ được thực hiện nếu được tất cả các tổ chức, cá nhân đó đồng ý.
- Tổ chức, cá nhân có quyền đăng ký quy định tại Điều này có quyền chuyển giao quyền đăng ký cho tổ chức, cá nhân khác dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản, để thừa kế hoặc kế thừa theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp đã nộp đơn đăng ký.
Có thể thấy quy định về các tổ chức, cá nhân có quyền đăng ký sáng chế đã bao quát được hết các trường hợp trên thực tế, từ đó bảo đảm quyền và lợi ích cho các tổ chức, cá nhân có quyền đăng ký kiểu dáng công nghiệp.
Theo Khoản 1 Điều 102 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định:
“Điều 102. Yêu cầu đối với đơn đăng ký sáng chế
1. Tài liệu xác định sáng chế cần bảo hộ trong đơn đăng ký sáng chế bao gồm bản mô tả sáng chế và bản tóm tắt sáng chế. Bản mô tả sáng chế gồm phần mô tả sáng chế và phạm vi bảo hộ sáng chế.”
Bản mô tả sáng chế gồm hai phần chính:
+ Phần mô tả phải làm rõ được các tiêu chuẩn bảo hộ cụ thể của sáng chế: tính mới, trình độ sáng tạo, tính ứng dụng trong công nghiệp; hơn thế phần mô tả này phải thể hiện được bản chất của sáng chế một cách đầy đủ và rõ ràng đến mức căn cứ vào đó người có trình độ trung bình trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng có thể thực hiện được sáng chế đó
+ Phạm vi bảo hộ của sáng chế: được thể hiện dưới dạng tập hợp các dấu hiệu kỹ thuật cần và đủ và phải phù hợp với phần mô tả và hình vẽ.
Bản tóm tắt sáng chế phải bộc lộ những nội dung chủ yếu về bản chất của sáng chế.
Để bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật trong quá trình xử lý, đơn đăng ký sáng chế còn phải đáp ứng các yêu cầu về hình thức sau đây (Điểm b Khoản 7.2 Điều 7 Thông tư 01/2007/TT-BKHCN hướng dẫn nghị định số 103/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về sớ hữu công nghiệp)
+ Mỗi đơn chỉ được yêu cầu cấp một văn bằng bảo hộ và loại văn bằng bảo hộ được yêu cầu cấp phải phù hợp với đối tượng sở hữu công nghiệp nêu trong đơn;
+ Mọi tài liệu của đơn đều phải được làm bằng tiếng Việt, trừ các tài liệu có thể được làm bằng ngôn ngữ khác theo quy định của Thông tư này;
+ Mọi tài liệu của đơn đều phải được trình bày theo chiều dọc (riêng hình vẽ, sơ đồ và bảng biểu có thể được trình bày theo chiều ngang) trên một mặt giấy khổ A4 (210mm x 297mm), riêng đối với tài liệu là bản đồ khu vực địa lý có thể được trình bày trên mặt giấy khổ A3 (420mm x 297mm), trong đó có chừa lề theo bốn phía, mỗi lề rộng 20mm, theo phông chữ Times New Roman, chữ không nhỏ hơn cỡ 13, trừ các tài liệu bổ trợ mà nguồn gốc tài liệu đó không nhằm để đưa vào đơn;
+ Đối với tài liệu cần lập theo mẫu thì bắt buộc phải sử dụng các mẫu đó và điền đầy đủ các thông tin theo yêu cầu vào những chỗ thích hợp
+ Mỗi loại tài liệu nếu bao gồm nhiều trang thì mỗi trang phải ghi số thứ tự trang đó bằng chữ số Ả-rập
+ Tài liệu phải được đánh máy hoặc in bằng loại mực khó phai mờ, một cách rõ ràng, sạch sẽ, không tẩy xoá, không sửa chữa; trường hợp phát hiện có sai sót không đáng kể thuộc về lỗi chính tả trong tài liệu đã nộp cho Cục Sở hữu trí tuệ thì người nộp đơn có thể sửa chữa các lỗi đó, nhưng tại chỗ bị sửa chữa phải có chữ ký xác nhận (và đóng dấu, nếu có) của người nộp đơn
+ Thuật ngữ dùng trong đơn phải thống nhất và là thuật ngữ phổ thông (không dùng tiếng địa phương, từ hiếm, từ tự tạo). Ký hiệu, đơn vị đo lường, phông chữ điện tử, quy tắc chính tả dùng trong đơn phải theo tiêu chuẩn Việt Nam
+ Đơn có thể kèm theo tài liệu bổ trợ là vật mang dữ liệu điện tử của một phần hoặc toàn bộ nội dung tài liệu đơn.
Xem thêm: Tổng hợp các bài viết của Luật sở hữu trí tuệ.
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh