Việc chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được quy định tại Điều 93, Luật đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013 (sau đây gọi tắt là Luật đất đai năm 2013), được hướng dẫn chi tiết tại Điều 30, Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014, cụ thể như sau:
Căn cứ tại Khoản 1, Điều 93, Luật đất đai năm 2013, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường phải chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi.
Căn cứ tại Khoản 2, Điều 93, Luật đất đai năm 2013, trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường chậm chi trả thì khi thanh toán tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi, ngoài tiền bồi thường, hỗ trợ theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì người có đất thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật quản lý thuế tính trên số tiền chậm trả và thời gian chậm trả.
Căn cứ tại Khoản 2, Điều 59, Luật Quản lý thuế năm 2019 quy định mức tính tiền chậm nộp bằng 0,03%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp.
Khi đó, tiền bồi thường, hỗ trợ được gửi vào tài khoản tạm giữ của Kho bạc nhà nước.
Khoản 4, Điều 93, Luật đất đai năm 2013 quy định phải trừ đi số tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền bồi thường để hoàn trả ngân sách nhà nước.
Khoản 1, Điều 30 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ quy định thêm về việc trừ tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền bồi thường như sau:
Khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai bao gồm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp cho Nhà nước nhưng đến thời điểm thu hồi đất vẫn chưa nộp.
Số tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính được xác định theo quy định của pháp luật về thu tiền sử dụng đất; thu tiền thuê đất, thuê mặt nước.
Trường hợp số tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính đến thời điểm có quyết định thu hồi đất lớn hơn số tiền được bồi thường, hỗ trợ thì hộ gia đình, cá nhân tiếp tục được ghi nợ số tiền chênh lệch đó. Nếu hộ gia đình, cá nhân được bố trí tái định cư thì sau khi trừ số tiền bồi thường, hỗ trợ vào số tiền để được giao đất ở, mua nhà ở tại nơi tái định cư mà số tiền còn lại nhỏ hơn số tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì hộ gia đình, cá nhân tiếp tục được ghi nợ số tiền chênh lệch đó.
Tiền được bồi thường để trừ vào số tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính gồm tiền được bồi thường về đất, tiền được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại (nếu có). Không trừ các khoản tiền được bồi thường chi phí di chuyển, bồi thường thiệt hại về tài sản, bồi thường do ngừng sản xuất kinh doanh và các khoản tiền được hỗ trợ vào khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai.
Căn cứ tại Khoản 2, Điều 30 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ, trong trường hợp này, phần chênh lệch giá trị ấy được thanh toán bằng tiền.
Khi đó, người tái định cư được nhận phần chênh lệch đó.
Khi đó người được bố trí tái định cư phải nộp phần chênh lệch trừ trường hợp hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở.
Khoản 3, Điều 30 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ quy định trường hợp diện tích đất thu hồi đang có tranh chấp về quyền sử dụng đất mà chưa giải quyết xong thì tiền bồi thường, hỗ trợ đối với phần diện tích đất đang tranh chấp đó được chuyển vào Kho bạc Nhà nước chờ sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết xong thì trả cho ngươi có quyền sử dụng đất.
Khoản 3, Điều 30 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ quy định về việc ứng vốn để bồi thường, hỗ trợ, tái định cư như sau:
Quỹ phát triển đất thực hiện ứng vốn cho Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch để giao đất, cho thuê đất thực hiện theo Quy chế mẫu về quản lý, sử dụng Quỹ phát triển đất.
Xem thêm: Quỹ phát triển đất là gì?
Người được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai nếu tự nguyện ứng trước kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo phương án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt thì được ngân sách nhà nước hoàn trả bằng hình thức trừ vào tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp.
Mức được trừ không vượt quá tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp; số tiền còn lại (nếu có) được tính vào vốn đầu tư của dự án.
Trường hợp người được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai mà được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất nếu tự nguyện ứng trước kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo phương án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt thì kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được tính vào vốn đầu tư của dự án.
Luật Hoàng Anh
Dịch vụ Luật Sư uy tín hàng đầu tại Hà Nội.
Số 2/84 - Trần Quang Diệu - Phường Ô Chợ Dừa - Quận Đống Đa - TP Hà Nội
Email: luatsu@luathoanganh.vn
Hỏi đáp luật Đất đai 08/07/2021
Bài viết trình bày về việc xác định giá khởi điểm đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất
Hỏi đáp luật Đất đai 08/07/2021
Bài viết trình bày về các căn cứ tính tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật hiện hành
Hỏi đáp luật Đất đai 08/07/2021
Bài viết trình bày về ác nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản và việc việc bồi thường thiệt hại về nhà, công trình xây dựng trên đất khi Nhà nước thu hồi đất
Hỏi đáp luật Đất đai 08/07/2021
Bài viết trình bày về các trường hợp Nhà nước thu hồi đất nhưng không bồi thường tài sản gắn liền với đất
Tìm kiếm nhiều