2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Dưới sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, các cá nhân trong xã hội ngày càng tích lũy được khối tài sản lớn nên việc để lại tài sản thừa kế cho con, cháu ngày càng được chú trọng. Cùng với đó các tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình liên quan đến thừa kế cũng ngày một gia tăng. Vậy pháp luật quy định về cách thức chia tài sản thừa kế cho con khi cha, mẹ mất như thế nào? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết sau đây.
Thừa kế được hiểu là sự dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống, tài sản để lại gọi là di sản thừa kế. Căn cứ theo quy định tại Điều 612 Bộ luật dân sự 2015, di sản thừa kế bao gồm phần tài sản riêng của người đã chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.
Trong đó, thừa kế được chia thành 02 hình thức:
- Thừa kế theo di chúc: là việc chuyển dịch tài sản của một người cho người còn sống khi họ chết. (Điều 624 Bộ luật dân sự 2015)
- Thừa kế theo pháp luật: là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định (Điều 649 Bộ luật dân sự 2015).
Điều 624 Bộ luật dân sự 2015 quy định về di chúc như sau: Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Việc phân chia tài sản trước tiên phải dựa theo ý chí của người di chúc bởi theo điều 626 Bộ luật dân sự 2015 quy định về các quyền của người lập di chúc:
“1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.
2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.
3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.
5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.”
Con cái có thể trở thành người thừa kế nếu mẹ lập di chúc chỉ định con cái là người thừa kế theo di chúc. Tuy nhiên, pháp luật dân sự còn quy định một số trường hợp thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Cụ thể tại khoản 1 Điều 644 Bộ luật dân sự 2015 gồm:
“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”
Theo đó, trường hợp con chưa thành niên hay con thành niên mà không có khả năng lao động không được người lập di chúc cho hưởng hoặc hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật thì họ vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất (trừ những trường hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 644 Bộ luật dân sự 2015).
Nếu cha, mẹ mất không để lại di chúc, hoặc có để lại di chúc nhưng di chúc đó không hợp pháp thì tài sản thừa kế được chia theo pháp luật.
Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định (Điều 649 Bộ luật dân sự năm 2015). Theo Điều 650 Bộ luật dân sự năm 2015, thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau:
“a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Bên cạnh đó, pháp luật dân sự cũng quy định các phần di sản được chia thừa kế theo pháp luật. Cụ thể:
“a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”
Bước đầu tiên của việc chia thừa kế theo pháp luật đó là xác định hàng thừa kế. Điều 651 Bộ luật dân sự quy định về người thừa kế như sau:
“a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”
Theo đó, nếu cha, mẹ mất thì con cái sẽ thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
Về nguyên tắc chia thừa kế được quy định như sau(khoản 2,3 Điều 651 Bộ luật dân sự 2015):
- Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
- Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước đó đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh