Các hành vi nào bị nghiêm cấm về an toàn, vệ sinh lao động? (Phần 4)

Thứ ba, 31/01/2023, 16:41:57 (GMT+7)

Bài viết giải thích về hai nhóm hành vi cuối cùng bị nghiêm cấm về an toàn, vệ sinh lao động

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Các hành vi nào bị nghiêm cấm về an toàn, vệ sinh lao động? (Phần 1), (Phần 2), (Phần 3) đã giới thiệu về 04 nhóm hành vi bị nghiêm cấm về an toàn, vệ sinh lao động. Sau đây Luật Hoàng Anh xin trình bày về 03 nhóm hành vi cuối cùng bị nghiêm cấm theo quy định của Luật an toàn, vệ sinh lao động số 84/2015/QH13 ngày 25/06/2015.

5. Phân biệt đối xử người lao động liên quan đến an toàn, vệ sinh lao động

Phân biệt đối xử người lao động dù với lý do gì cũng là một trong các lý do cũng là hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực lao động nói chung (dựa trên quy định tại Điều 8 Bộ luật lao động số 45/2019/QH14 ngày 20/11/2019). Do đó, trước khi có liên quan đến an toàn, vệ sinh lao động, các hành vi phân biệt đối xử đều không phải là hành vi tốt cho sự phát triển môi trường tại nơi làm việc.

Theo Khoản 5 Điều 12 Luật an toàn, vệ sinh lao động số 84/2015/QH13 ngày 25/06/2015, các hành vi phân biệt đối xử người lao động liên quan đến an toàn, vệ sinh lao động bị nghiêm cấm bao gồm:

a. Phân biệt đối xử về giới trong bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động

Hành vi phân biệt đối xử về giới liên quan đến bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động rất đa dạng và có nhiều nguyên nhân khác nhau.

Nguyên nhân của việc phân biệt đối xử về giới trong bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động có thể xuất phát từ chính bản chất phân biệt đối xử về giới, hoặc xuất phát từ lý do về đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động. Ví dụ: Người sử dụng lao động cho rằng người lao động nữ không thể thực hiện được các tiêu chuẩn, kỹ thuật đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động nên có hành vi ép buộc, cản trở người lao động nữ thực hiện công việc dẫn đến người lao động nữ phải xin nghỉ việc, trường hợp này được coi là phân biệt đối xử về giới xuất phát từ nguyên nhân liên quan đến an toàn, vệ sinh lao động. Nhưng trong nhiều trường hợp, đơn giản người sử dụng lao động cho rằng người lao động nữ yếu và không thể thực hiện công việc năng suất bằng nam nên có hành vi phân biệt đối xử trong việc hỗ trợ đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động nữ, nhằm cản trở người lao động nữ thực hiện công việc. Đây cũng được coi là phân biệt đối xử về giới trong đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động.

Phân biệt đối xử về giới trong vấn đề này cũng có thể tạo bất lợi cho bất kỳ giới tính nào, chứ không chỉ với những giới tính được xem như yếu thế như lao động nữ. Ví dụ: Người sử dụng lao động cho rằng người lao động nam có sức khỏe tốt hơn người lao động nữ nên không bố trí đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động đầy đủ như người lao động nữ, đây cũng là một dạng phân biệt đối xử về giới liên quan đến đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động.

Chủ thể có hành vi phân biệt về giới tính nói chung (trong đó có phân biệt về giới trong bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động) có thể bị xử lý vi phạm hành chính qua hình thức phạt tiền từ 5.000.000 đến 10.000.000 Việt Nam Đồng (theo Khoản 2 Điều 7 Nghị định số 28/2020/NĐ-CP của Chính phủ).

b. Phân biệt đối xử vì lý do người lao động từ chối làm công việc hoặc rời bỏ nơi làm việc khi thấy rõ có nguy cơ xảy ra tai nạn lao động đe dọa nghiêm trọng tính mạng hoặc sức khỏe của mình

Đây là hành vi phân biệt người lao động do người lao động thực hiện đúng quyền của mình nhưng làm ảnh hưởng đến lợi ích của người lao động. Hành vi phân biệt đối xử này có 02 mục đích:

- Ép buộc người lao động phải nghe theo người sử dụng lao động, không được từ chối công việc hoặc rời bỏ nơi làm việc khi có nguy cơ xảy ra tai nạn lao động đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe của mình. Nói cách khác, hành vi này có thể trở thành cưỡng bức lao động nếu sự việc xảy ra lần nữa và người lao động bị ép tiếp tục làm việc do sợ bị phân biệt đối xử tại nơi làm việc.

- Trả thù người lao động vì không làm theo ý của người sử dụng lao động.

Dù với mục đích gì, khi người sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử này, có thể bị xử lý vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền từ 5.000.000 Việt Nam Đồng đến 50.000.000 Việt Nam Đồng tùy theo số lượng người lao động bị phân biệt đối xử (theo Khoản 2 Điều 22 Nghị định số 28/2020/NĐ-CP của Chính phủ)

c. Phân biệt đối xử vì lý do đã thực hiện công việc, nhiệm vụ bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại cơ sở của người làm công tác an toàn, vệ sinh lao động, an toàn, vệ sinh viên, người làm công tác y tế

Trường hợp này ít xảy ra hơn hai trường hợp trên do người làm công tác an toàn, vệ sinh lao động, an toàn, vệ sinh viên, làm công tác y tế do người sử dụng lao động là chủ thể chọn những người này thực hiện các công việc, nhiệm vụ trên. Tuy nhiên, nếu việc thực hiện các công việc, nhiệm vụ trên gây ra các tổn hại về lợi ích cho người sử dụng lao động, người sử dụng lao động cũng không muốn người làm công tác an toàn, vệ sinh lao động, an toàn, vệ sinh viên, người làm công tác y tế thực hiện chúng, điều đó dẫn đến phân biệt đối xử với những người này.

6. Sử dụng lao động hoặc làm công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động khi chưa được huấn luyện về an toàn, vệ sinh lao động

Các công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động được quy định trong danh mục được ban hành kèm theo Thông tư số 06/2020/TT-BLĐTBXH ngày 20/08/2020. Đây hầu hết là các công việc đòi hỏi tính kỹ thuật cao, nặng nhọc, nguy hiểm và độc hại. Đây cũng là lý do người lao động khi thực hiện các công việc này cũng phải đảm bảo các điều kiện phù hợp với công việc, trong đó có tập huấn về an toàn, vệ sinh lao động (tập huấn về kỹ thuật và thực tiễn). Người sử dụng lao động khi sử dụng người lao động làm công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động nhưng chưa qua tập huấn thì phải tổ chức huấn luyện cho người lao động. Nếu không tổ chức huấn luyện mà vẫn sử dụng người lao động thì người sử dụng lao động, người sử dụng lao động có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 Việt Nam Đồng đến 50.000.000 Việt Nam Đồng (theo Khoản 1 Điều 24 Nghị định số 28/2020/NĐ-CP của Chính phủ).

7. Trả tiền thay cho việc bồi dưỡng bằng hiện vật

Người sử dụng lao động bồi dưỡng bằng hiện vật cho người lao động làm việc trong môi trường nguy hiểm, có yếu tố có hại cho sức khỏe của người lao động, nhằm tăng cường sức đề kháng, sức khỏe của người lao động, giúp người lao động giảm thiểu tỷ lệ bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp nhất có thể. Vì vậy nếu trả tiền thay cho việc bồi dưỡng bằng hiện vật thì ý nghĩa của việc bồi dưỡng bằng hiện vật cũng không còn.

Người sử dụng lao động cũng có thể bị phạt tiền từ 3.000.000 đến 30.000.000 Việt Nam Đồng tùy theo số lượng người lao động bị trả tiền thay cho việc bồi thường bằng hiện vật (theo Khoản 8 Điều 21 Nghị định số 28/2020/NĐ-CP của Chính phủ).

Luật Hoàng Anh

 

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư